Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 67

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 133

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm năm mươi, xem từ ḍng cuối cùng.

“Siêu quá thế gian chư sở hữu pháp” (vượt trỗi các pháp vốn có trong thế gian). Trong hạnh lợi tha của Bồ Tát, vừa mở đầu liền nói: “Đắc Phật biện tài, trụ Phổ Hiền hạnh, khai hóa hiển thị chân thật chi tế” (Đắc biện tài của Phật, trụ trong hạnh Phổ Hiền, khai hóa, hiển bày Chân Thật Tế). Ở đây, chúng ta lại tiếp tục xem tới câu “siêu quá thế gian chư sở hữu pháp”. Mấy câu này là một đoạn ngắn.“Diệu hạnh hiển Thật”: Nơi phần nói về Tứ Đức trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, điều thứ nhất là “tùy duyên diệu hạnh”, mấy câu này đều thuộc về đức ấy. Đặc biệt là trong câu này, Bồ Tát ứng hóa trên thế gian, nên dùng thân ǵ để độ được, liền hiện thân nấy, nên dùng phương pháp ǵ để giúp đỡ chúng sanh, bèn dùng phương pháp ấy. Chẳng có phương pháp nhất định, mà cũng chẳng có h́nh tướng nhất định, thảy đều là “thuận theo tâm chúng sanh, ứng theo khả năng lănh hội của họ” như kinh Lăng Nghiêm đă nói, đúng là “đắc đại tự tại”.

Hoàng lăo cư sĩ đă trích dẫn lời giải thích của mấy vị tổ sư đại đức. Trước hết, cụ trích dẫn Tịnh Ảnh Sớ. Pháp sư Huệ Viễn đời Tùy đă giải thích câu này như sau: “Vị quá Phần Đoạn, Biến Dịch thế gian nhất thiết pháp giả” (ư nói vượt qua Phần Đoạn, Biến Dịch, hết thảy các pháp thế gian). “Quá” () là vượt qua. V́ Phần Đoạn sanh tử và Biến Dịch sanh tử bao quát mười pháp giới, trong mười pháp giới có lục đạo. Hai thứ sanh tử ấy lục đạo đều có, cũng tức là Biến Dịch và Phần Đoạn thảy đều có. Phần Đoạn (分段) là từng đoạn một, loài người chúng ta từ lúc sanh ra cho đến tử vong, khoảng thời gian ấy gọi là một đoạn (giai đoạn). Biến Dịch (變易) là ǵ? Biến hóa mỗi ngày, loài người chúng ta sanh, già, bệnh, chết. Chẳng phải là bỗng dưng già, mà là mỗi ngày một già hơn, biến hóa mỗi ngày, đó là Biến Dịch. Trong bốn thánh pháp giới, tức là các giai tầng cao trong mười pháp giới, bốn thánh pháp giới là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật chẳng có Phần Đoạn sanh tử, nhưng có Biến Dịch. V́ thế, nói Phần Đoạn và Biến Dịch, bèn gồm trọn mười pháp giới trong ấy. Chư vị phải biết: Vượt thoát mười pháp giới, nếu sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, Biến Dịch chẳng c̣n nữa, Biến Dịch sanh tử cũng đoạn; trong cơi ấy là vĩnh hằng bất biến, do nguyên nhân ǵ? V́ các Ngài chẳng dùng Thức. Đức Phật bảo chúng ta: Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Chỉ cần c̣n có duy thức, sẽ c̣n có Biến Dịch sanh tử. Các Ngài chẳng có thức, đă chuyển thức thành trí, [tức là] chuyển tám thức thành bốn trí, Biến Dịch sanh tử sẽ chẳng c̣n nữa. V́ thế, hai thứ sanh tử đều chẳng có; đó là thành Phật, minh tâm kiến tánh. Đă thành Phật th́ hai thứ sanh tử đều chẳng c̣n! Theo kinh Hoa Nghiêm, đó là từ Sơ Trụ trở lên, thuộc vào bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. Những vị Bồ Tát ấy trí huệ và đức tướng chân thật, trí huệ và đức tướng hoàn toàn hiện tiền.

      Tiếp đó, cụ Hoàng trích dẫn ba lời chú giải đều của [các vị đại đức] Nhật Bản. Sách Hợp Tán do pháp sư Quán Triệt (觀徹) người Nhật soạn, đây chính là tác phẩm chú giải kinh Vô Lượng Thọ. “Hợp Tán vân: Siêu quá Phần Đoạn, Biến Dịch nhị tử, an trụ xuất thế Nhị Không chi trí, thử tức thành tựu Trí Đoạn nhị đức dă” (Sách Hợp Tán viết: “Vượt qua hai thứ sanh tử Phần Đoạn và Biến Dịch, an trụ trong hai Không Trí xuất thế. Đấy chính là thành tựu Trí Đức và Đoạn Đức”). Lời chú giải này tỉ mỉ hơn bản trước. Câu đầu giảng “vượt qua Phần Đoạn, Biến Dịch sanh tử” giống như Viễn Công đă nói, nhưng phần sau lại c̣n nói thêm: An trụ trong hai Không Trí xuất thế, đấy chính là thành tựu Trí Đức và Đoạn Đức; giảng cặn kẽ hơn cách trước. “Trí” là trí huệ Bát Nhă trong tự tánh, minh tâm kiến tánh. Trí huệ ấy hiện tiền, đó là Trí Đức. Đoạn Đức là hai thứ sanh tử đều đă đoạn; đó là Đoạn Đức.

      Chúng ta lại xem Hội Sớ; sách này của pháp sư Tuấn Đế (峻諦) người Nhật: “Tam giới hư vọng, giai bất thường trụ, tổng danh thế gian” (ba cơi hư vọng, đều chẳng thường trụ, gọi chung là “thế gian”). “Tam giới” (三界) là nói về lục đạo, chẳng bao gồm tứ thánh pháp giới. Trong lục đạo có Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, đó là tam giới. Tam giới hư vọng, trong kinh thường nói là “đều chẳng thường trụ”. Nói thật ra, nó sanh diệt trong từng sát-na. Không chỉ lục đạo là như thế, mà bốn thánh pháp giới cũng chẳng phải là ngoại lệ, cũng chẳng phải là thường trụ, nên [cả mười pháp giới] đều có thể gọi là “thế gian”. “Chúng sanh, quốc độ, tạng phủ vạn sai, thị danh chư sở hữu pháp” (Chúng sanh, cơi nước, hoàn cảnh tốt xấu muôn vàn sai khác, đó gọi là “chư sở hữu pháp”), đây là lời giải thích câu kinh trong phần sau [của đoạn Diệu Hạnh Hiển Thật, tức câu] “siêu quá thế gian chư sở hữu pháp”. Chúng sanh và cơi nước, trong tam giới cũng rất phức tạp. Đối với tam giới, trong phần trước, chúng ta đă thấy khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật là một tam thiên đại thiên thế giới, gọi chung là “tam giới”, kể cả tam giới đang được nói đến ở chỗ này. Một khu vực lớn ngần ấy bao gồm Sa Bà thế giới tam thiên đại thiên thế giới, như Hoàng lăo cư sĩ đă nói th́ tổng cộng là mười ức hệ Ngân Hà; đối với một nơi to lớn như thế, nh́n từ tam giới, địa cầu vô cùng bé nhỏ! Trong mười ức hệ Ngân Hà, địa cầu thấm vào đâu? Vô cùng nhỏ bé! Trong các tinh cầu, có nơi rất tốt đẹp, cũng có nơi rất tệ, giống như địa cầu của chúng ta hiện thời rất tệ. Hiện tại, xă hội động loạn, tai nạn trên địa cầu nhiều ngần ấy, ở đây, những điều ấy được [sư Tuấn Đế] diễn tả là “tạng phủ vạn sai” (臧否萬差). “Tạng” () là hoàn cảnh tốt đẹp, tức là hoàn cảnh cư trụ trên tinh cầu ấy tốt đẹp. Đời sống trên quả địa cầu này đă từng tốt đẹp. Cổ thư Trung Quốc đă ghi chép thời “thịnh trị đại đồng” được Khổng Tử tán thán, người thời nào vậy? Trong các thời của Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, th́ các thời đại Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn là thời thịnh trị đại đồng. Thời vua Vũ vẫn c̣n khá; kể từ sau khi vua Vũ truyền ngôi cho con, Hạ Khải lên ngôi Thiên Tử trở đi, cho đến thời Văn Vương, Vũ Vương, Châu Công, Khổng phu tử đánh giá những thời đại ấy là thời “thịnh trị tiểu khang”. Nh́n vào lịch sử Trung Quốc, đời Hán có “Văn Cảnh chi trị”, tức thời thịnh trị của Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế, đời Đường có thời thịnh trị Trinh Quán và Khai Nguyên, đều là thời thịnh trị. Nhà Thanh có các đời vua Khang Hy và Càn Long, đều có thể coi như thời thịnh trị trong lịch sử, nhưng đều thuộc loại tiểu khang, chẳng phải là đại đồng.

      Khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật là tam thiên đại thiên thế giới, trong các tinh cầu nhiều ngần ấy, có thời thịnh trị đại đồng hay không? Khẳng định là có! Cũng có nơi là đời loạn giống như chúng ta trong hiện tại, đă loạn đến mức không thể loạn hơn nữa; hiện thời có rất nhiều người nói đến tận thế. V́ thế, “tạng phủ vạn sai” (vàn muôn tốt xấu sai khác) được nói ở chỗ này là nói theo quả. Xét theo nhân, luôn có mối quan hệ nhân quả với cư dân trên tinh cầu. Nếu họ giữ tấm ḷng thiện lương, tâm và hạnh đều thiện, tinh cầu ấy là đời thịnh trị, là thời thịnh trị đại đồng. Tâm hạnh bất thiện, nhưng có thể có được giáo huấn của thánh hiền, tuy chẳng thể nói là tất cả mọi người đều tuân theo, nhưng sẽ biến thành thời đại đồng do một số ít người. “Số ít” là bao nhiêu? Cổ nhân thường nói là một phần trăm, tức là trong một trăm người, có một thiện nhân, một người tốt lành, [cơi đời ấy] luôn có thể trở thành thời tiểu khang, một người trong trăm người đấy nhé! Từ lịch sử Trung Quốc, chúng ta có thể thấy điều ấy. Nếu trong một trăm người, chẳng có một thiện nhân nào, sẽ là chuyện rắc rối, sẽ biến thành đời loạn. Trong xă hội hiện tiền, giữa một trăm người, chẳng t́m được một thiện nhân, có thể là trong một ngàn người vẫn t́m chẳng thấy! Đại khái là trong một vạn người, may ra t́m thấy! Một phần vạn, một phần mười vạn th́ xă hội loạn rồi! Một trăm người bất thiện, có một người thiện, xă hội c̣n có thể duy tŕ. Cổ nhân nói “tà chẳng thể thắng chánh”, có một người tâm hạnh thuần chánh, người ấy sẽ ít nhiều có thể cảm hóa chín mươi chín người kia. Chúng ta có thể tin vào cách nói này. Đó gọi là “chư sở hữu pháp”. “Bồ Tát thâm dĩ đại trí huệ” (Bồ Tát do đại trí huệ sâu xa); thời cổ, chữ Huệ () trong ân huệ (恩惠) và chữ Huệ () trong trí huệ (智慧) được sử dụng lẫn lộn, “đạt tánh không, vô tướng, cố vân siêu quá” (thấu đạt tánh Không, vô tướng, nên gọi là “vượt qua”). Những vị Bồ Tát ấy minh tâm kiến tánh, trí huệ Bát Nhă trong tự tánh hiện tiền, liễu giải tất cả hết thảy hiện tượng, tướng có, tánh không. “Tướng có” là Huyễn Hữu, “tánh không” là Chân Không. V́ thế, trong hết thảy các hiện tượng, các Ngài chẳng chấp trước, chẳng phân biệt, không khởi tâm, không động niệm, đó là “siêu quá”, vượt trỗi các pháp vốn có trong thế gian. Sách Hội Sớ giải thích cặn kẽ hơn hai sách trước.

      Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp: “Chân Giải (do pháp sư Đạo Ẩn (道隱) của Nhật Bản nói, Sư nói rất hay) chi thuyết sảo dị ư tiền, bỉ viết: Thế gian chư sở hữu pháp giả, hữu vi khả phá hoại, danh thế gian” (Thuyết của sách Chân Giải hơi khác với các sách trên, sách viết: “Tất cả các pháp vốn có trong thế gian, hữu vi có thể phá hoại, nên gọi là thế gian”). [Cách nói này] đă bao quát cả mười pháp giới trong ấy, v́ sao? Chúng đều là pháp hữu vi. Pháp hữu vi có sanh, có diệt. Tuy trong bốn thánh pháp giới chẳng có Phần Đoạn sanh tử, nhưng có Biến Dịch sanh tử, nên vẫn là pháp hữu vi. Nhất định phải đạt đến Nhất Chân pháp giới mới là pháp vô vi. Chúng ta không có cách nào tưởng tượng cảnh giới ấy, nên thông thường kinh Phật dùng một câu là “chẳng thể nghĩ bàn”. Chúng ta chẳng thể tưởng tượng, nói thực tại là có nói cũng chẳng diễn tả được! Nói không được mà đức Phật nói với chúng ta, đó là phương tiện thiện xảo của đức Phật. Tuy nói ra, nhưng người thật sự có thể lănh hội, thật sự có thể thấu hiểu, nói thật ra, trọn chẳng nhiều! Chúng ta chỉ hiểu ư nghĩa thô thiển được diễn tả bởi danh từ ấy, chứ tánh, tướng, lư sự, nhân quả chân thật trong ấy chúng ta đều chẳng có cách nào liễu giải. “Y, chánh, thiện, ác, nhân, quả đẳng, nhất thiết hữu vi chư pháp” (Y báo, chánh báo, thiện, ác, nhân, quả v.v… hết thảy các pháp hữu vi). Sư (pháp sư Đạo Ẩn) nói đến thế gian, lại nói đến pháp hữu vi như y báo, chánh báo, thiện, ác, nhân quả... Trong khi đó, sách Hội Sớ trong phần trước chỉ dùng bốn chữ là “tạng phủ vạn sai”, c̣n sách Chân Giải giảng rất rơ ràng, chúng ta rất dễ hiểu. [Chân Giải] dùng y báo, chánh báo, thiện, ác, nhân, quả v.v… đó là những pháp hữu vi, để giải thích từ ngữ “sở hữu pháp”. “Bồ Tát năng tri nhất thiết tam giới hư vọng, nhi hành thế gian bất xả, cố vân siêu quá” (Bồ Tát biết hết thảy tam giới hư vọng, nhưng đi trong thế gian, chẳng bỏ, nên gọi là “vượt qua”). Câu này nói rất hay, [các vị Bồ Tát] biết [“chư sở hữu pháp”] là giả; dẫu giả, các Ngài vẫn chẳng bỏ. Các Ngài vẫn đến thị hiện trong thế gian này, đến giáo hóa chúng sanh, giúp chúng sanh phá mê, khai ngộ, đó là đại từ đại bi. “Dĩ thượng chư thuyết giai thị” (các thuyết trên đây đều đúng), đều nói chẳng sai, “đản Chân Giải di khế bổn kinh” (nhưng thuyết của sách Chân Giải hết sức phù hợp kinh này). [Cụ Hoàng] tán thán cách giải thích của sách Chân Giải vô cùng phù hợp với giáo nghĩa của kinh này.

      A Di Đà Phật chẳng bỏ hết thảy chúng sanh khổ nạn, chúng ta phải biết, phải cảm ơn. Báo ân như thế nào? Để báo ân, chỉ có y giáo tu hành, thật sự hành. Trong một đời này, có thể thành tựu hay không? Xác thực là chỉ có sáu chữ, làm được sáu chữ ấy, quư vị quyết định thành Phật trong một đời này! Sáu chữ ấy là “thật thà, nghe lời, làm thật”, quư vị sẽ thành công. “Thật thà” là ǵ? Nhất tâm nhất ư, đó là thật thà. Trong một đời này, một bộ kinh Vô Lượng Thọ, một câu A Di Đà Phật, suốt đời chẳng thay đổi, đó là thật thà. “Nghe lời” là đối với những đạo lư được nói trong kinh này, chẳng hoài nghi chút nào, biến [các đạo lư ấy] thành tư tưởng của chính ḿnh, tiếp nhận trọn vẹn tất cả những giáo huấn trong kinh, biến chúng thành hành vi của chính ḿnh, đó là thật sự nghe lời. Chư Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ Tát đă nêu gương tốt cho chúng ta thấy, chúng ta có thể học tập các Ngài th́ gọi là “nghe lời”, là “thật sự làm”, há có lẽ nào chẳng thành Phật? Phải hành bao lâu? Hoàn toàn tùy thuộc tâm thái của quư vị. Nếu quư vị thực hiện một trăm phần trăm sáu chữ vừa nói, đúng một trăm phần trăm, chẳng giảm thiểu một chút nào, thật sự thật thà, nghe lời, thật sự hành, kinh Di Đà dạy “nhược nhất nhật”, một ngày bèn thành công. Kinh Di Đà dạy “nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật”, chẳng khó, thật sự có thể thành công!

      Trong quá khứ, thật sự có người tu [thành công như thế]: Pháp sư Oánh Kha đời Tống. Chúng ta thấy Văng Sanh Truyện có chép truyện của Sư, trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục cũng thấy chép. Sư chỉ niệm Phật ba ngày, sáu ngày bèn văng sanh. Theo truyện kư ghi chép, Sư là người xuất gia, nhưng là một người xuất gia phá giới, phạm giới. Ưu điểm của vị này ở chỗ nào? Sư tin sâu nhân quả. Nghĩ chính ḿnh v́ tập khí phiền năo mà phá giới, nghe những lời dạy trong kinh Phật, đối chiếu với hành vi của chính ḿnh, trong tâm nghĩ ḿnh quyết định đọa địa ngục. Nghĩ tới tương lai phải đọa địa ngục, Sư kinh sợ, thật sự sợ hăi, chẳng phải là giả, bèn thỉnh giáo đồng tham đạo hữu: “Có phương pháp ǵ có thể cứu tôi hay không?” Các đồng học cũng khá lắm, tặng Sư một quyển Văng Sanh Truyện; Sư đọc xong, thật sự cảm động. Sau khi xem xong, Sư ngồi yên trong liêu pḥng của chính ḿnh, đóng chặt cửa, chuyên niệm A Di Đà Phật, không ngủ nghê, không ăn cơm, chẳng uống nước, niệm một câu A Di Đà Phật suốt ba ngày ba đêm. Đúng là “chân thành bèn linh”. Vấn đề là con người phải thành tâm, do chân thành bèn linh, niệm cảm A Di Đà Phật hiện đến. A Di Đà Phật bảo Sư: “Ông c̣n có mười năm tuổi thọ, hăy khéo tu hành. Mười năm sau, khi ông mạng chung, ta sẽ đến tiếp dẫn ông”. Pháp sư Oánh Kha biết căn bệnh tập khí của chính ḿnh rất nặng, chẳng có cách nào vượt qua, bèn xót xa cầu xin A Di Đà Phật: “Con chẳng cần mười năm thọ mạng! Con ra đi ngay bây giờ có được hay không? Nay con xin đi theo Ngài”. A Di Đà Phật cũng đáp ứng: “Được rồi! Ba hôm sau ta sẽ đến tiếp dẫn ông”. Quư vị thấy niệm ba ngày cảm được A Di Đà Phật hiện đến, ước hẹn cùng A Di Đà Phật: Ba ngày sau, Phật đến tiếp dẫn. V́ thế, Sư mở cửa liêu pḥng, bảo mọi người: “Ba ngày sau, tôi sẽ văng sanh”. Chẳng có ai tin tưởng Sư, há có chuyện đơn giản ngần ấy? Ai nấy đều biết Sư là kẻ phá giới, là người xuất gia chẳng tuân thủ Thanh Quy, cớ sao đóng cửa pḥng [niệm Phật] ba ngày mà ba hôm sau sẽ văng sanh? Cũng may là thời gian ba ngày chẳng dài, mọi người đợi xem, xem thử Sư văng sanh là thật hay giả!

      Ba ngày sau, khi lên chánh điện, Sư bảo mọi người: “Hôm nay, xin mọi người niệm Phật trên chánh điện, niệm A Di Đà Phật đưa tôi đi văng sanh”. Khi đó, mọi người tốt đẹp, ai nấy đều rất tử tế, cũng rất nghe lời: “Được rồi, hôm nay chúng tôi tiễn thầy văng sanh”. Mọi người niệm Phật cho Sư, niệm chưa đến một khắc, một khắc là nửa tiếng đồng hồ hiện thời. Vào thời cổ, “thời thần” tính bằng Tư, Sửu, Dần, Măo…, dùng cách tính ấy, chẳng giống như hiện thời. Hiện nay, chúng ta dùng cách tính hai mươi bốn giờ theo ngoại quốc. “Thời thần” của Trung Quốc là mười hai giờ, nên một khắc là nửa tiếng đồng hồ hiện thời. Chưa đến một khắc, đại khái gần nửa tiếng đồng hồ, pháp sư Oánh Kha bảo mọi người: “Tôi đă thấy rồi, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn tôi”, hướng về mọi người từ biệt, Sư bèn tịch. Đúng là đă văng sanh, cũng chẳng ngă bệnh, thật sự văng sanh. Thị hiện cho chúng ta biết: Kinh Di Đà dạy “hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày” chẳng giả, là thật. Quư vị thật sự chịu làm, A Di Đà Phật thật sự đến! Quư vị nói chính ḿnh niệm suốt mười mấy năm, chẳng niệm A Di Đà Phật hiện đến được, đó là ǵ? Tâm quư vị chẳng chân thành, chẳng khẩn thiết! Quư vị niệm Phật, A Di Đà Phật ở bên đó cười: “Hư t́nh giả ư, chẳng thật!” Hễ là thật, Phật thật sự tới! Nhất định phải hiểu đạo lư này! Chúng ta thật sự hành, quyết định có thể thành tựu, pháp sư Oánh Kha đă nêu gương rất tốt cho chúng ta. C̣n như [các trường hợp] niệm Phật ba năm công phu thành tựu văng sanh th́ quá nhiều. Từ xưa tới nay, chúng ta thấy Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Văng Sanh Truyện ghi chép, tuyệt đại đa số là ba năm. Trong quá khứ, đă có người hỏi tôi: “Có phải là thọ mạng của họ chỉ c̣n ba năm, nên niệm Phật ba năm bèn văng sanh?” Sau khi nghe xong, tôi nghĩ chẳng có khả năng ấy cho lắm! Há có chuyện trùng hợp khéo léo như vậy? Người thọ mạng chỉ c̣n ba năm có lẽ cũng có, nhưng tôi nghĩ tuyệt đại đa số chẳng phải là như vậy. Công phu của họ đă đạt, cũng giống như pháp sư Oánh Kha hăy c̣n có thọ mạng, nhưng chẳng cần, cầu Phật tiếp dẫn văng sanh. Phật tùy thuận tâm chúng sanh, cho chúng sanh măn nguyện. Quư vị đă cầu, lẽ nào Ngài chẳng đáp ứng? Ra đi là như vậy đó. Chuyện này là thật, chẳng giả, chúng ta phải ghi nhớ kỹ càng. V́ sao quư vị niệm Phật chẳng có cảm ứng? Quư vị c̣n lưu luyến thế gian này. Chỉ cần có mảy may lưu luyến, Phật bèn chờ đợi quư vị, đợi đến ngày nào, quư vị thật sự nghĩ chẳng cần đến thế gian này nữa, buông xuống toàn bộ, Phật liền đến tiếp dẫn quư vị. Chân tướng sự thật là như thế, nhất định phải có trí huệ, thế gian này là giả, chẳng thật!

      “Trí Nhị Không”: Tướng là Không, Tánh cũng là Không. V́ thế, Tướng được gọi là Huyễn Hữu, Tánh được gọi là Chân Không, đều chớ nên chấp trước. Không chỉ đừng nên chấp trước, mà khởi tâm động niệm đều sai, phải nên dùng thái độ ǵ? Không khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước. Đối với hết thảy các pháp, pháp thế gian là như thế, mà đối với pháp xuất thế gian cũng là như thế, tâm quư vị mới sạch làu, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” chính là chân tâm đều hiện tiền. Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác hiện tiền, A Di Đà Phật liền hiện tiền. Trong bộ kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật đă giới thiệu minh bạch: “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là A Di Đà Phật; lẽ nào tự tánh Di Đà và Tây Phương Cực Lạc thế giới Di Đà chẳng tương ứng? V́ lẽ đó, ở đây, sách Chân Giải nói rất hay, chúng ta phải ghi nhớ, [hăy hành] giống như Bồ Tát: Tuy hết thảy tam giới hư vọng, nhưng vẫn đi trong thế gian, chẳng bỏ. Tuy chẳng bỏ, nhưng chẳng chấp trước mảy may; khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước thảy đều chẳng có. “Chẳng bỏ” th́ là có hay không có? Chẳng bỏ, nhưng chẳng có khởi tâm động niệm, đó là đại từ đại bi trong tự tánh tự nhiên lưu lộ, chẳng có chút ǵ dính líu đến khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước; cảnh giới ấy chẳng thể nghĩ bàn! Đoạn này giảng về chân tướng của việc Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế gian, [cũng như] Thật Đức, tức đức hạnh chân thật của các Ngài.

      Trong đoạn tiếp theo, chúng ta lại xem sự ứng hóa của các Ngài. Người hiện thời nói là “tâm thái”. Tâm thái như thế nào? Dùng phương thức ǵ để ứng hóa? Đều là tùy thuận phàm t́nh của chúng ta để nói. V́ sao? Nếu tùy thuận Phật, Bồ Tát, quư vị sẽ chẳng thể mở miệng được! “Tâm hành xứ diệt, ngôn ngữ dứt bặt” mà! Đây là đức Thế Tôn phương tiện thiện xảo, v́ chúng ta nói ra sự ứng hóa của Phật, Bồ Tát trên thế gian. Quư vị xem nhé: “Tâm thường đế trụ độ thế chi đạo. Đế giả, an dă. Độ giả, xuất dă. Cố bổn cú chi đại nghĩa vi tâm thường an trụ ư xuất thế vô vi chi đạo” (Tâm thường trụ chắc nơi đạo xuất thế. Đế () là an. Độ () là thoát ra. V́ thế, ư nghĩa chánh yếu của câu này là “tâm thường an trụ nơi đạo vô vi xuất thế”). Ư nghĩa này được giảng rất hay, cũng đúng như kinh Kim Cang đă nói: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (hăy nên chẳng trụ vào đâu mà sanh tâm), có ư nghĩa ấy. “Tịnh Ảnh Sớ vân: Đế vị an đế” (Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Đế nghĩa là ở yên chắc chắn”), cũng có nghĩa là An. “Vị thường an trụ chân thật vô vi độ thế chi đạo” (ư nói thường an trụ nơi đạo chân thật vô vi độ thế). “Chân Giải viết: Xuất hữu vi, chứng vô vi, nhi bất trước vô vi, cố vân đế trụ” (Sách Chân Giải giảng: - Thoát khỏi hữu vi, chứng vô vi, nhưng chẳng chấp vào vô vi, nên nói là “đế trụ”), có ư nghĩa này. Câu kế tiếp là: “Thử Bồ Tát tâm thường trụ vô trụ xứ Niết Bàn, vân tâm thường trụ” (Tâm của các vị Bồ Tát ấy thường trụ trong Vô Trụ Xứ Niết Bàn, nên nói là “tâm thường trụ”). Chứng đắc Đại Bát Niết Bàn, nhưng các Ngài chẳng trụ trong Niết Bàn, chúng ta cũng nói là “vô trụ Niết Bàn”. Ở đây, Sư c̣n thêm chữ “xứ” (), tức Vô Trụ Xứ, chúng ta thường tỉnh lược chữ Xứ này, nên nói là Vô Trụ Niết Bàn. Chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ trong Niết Bàn. Nói rơ các vị Bồ Tát ấy khác A La Hán và Bích Chi Phật. A La Hán và Bích Chi Phật trụ Niết Bàn, chẳng trụ sanh tử. Sanh tử là lục đạo, các vị ấy chẳng trụ trong lục đạo, nhưng trụ trong Niết Bàn. Các vị Bồ Tát ấy đă chứng Niết Bàn, nhưng chẳng trụ Niết Bàn, thời thời khắc khắc vào trong lục đạo, ở lẫn lộn với chúng sanh trong lục đạo, ḥa quang đồng trần. Ở lẫn lộn với chúng sanh, biểu hiện chẳng khác chúng sanh cho mấy, không ai có thể nhận ra Ngài là Phật, hay Bồ Tát thật sự.

      Ở đây, có một câu phải nói rơ cùng quư vị. Mọi người phải nhớ: Những vị Phật, Bồ Tát thị hiện trong nhân gian, nếu thân phận bị bộc lộ Ngài là vị Bồ Tát nào đó thị hiện, giống như Di Lặc Bồ Tát, tôi lấy Ngài làm thí dụ. Bố Đại ḥa thượng đời Tống, Cao Tăng Truyện có chép truyện kư của Ngài. Ngài xuất hiện vào thời Tống Cao Tông, họ ngoài đời là ǵ, sống ở đâu, quê quán là đâu, không ai biết. V́ người thuở ấy cũng chẳng có ai coi trọng Ngài. Vị xuất gia ấy rất tùy tiện, cũng chẳng chú trọng dáng vẻ, rất nhếch nhác, điên điên khùng khùng, là một người như vậy đó, nên cũng chẳng có ai coi trọng Ngài. Hằng ngày, Ngài xách một cái túi vải to ra ngoài hóa duyên, bất luận người ta cho thứ ǵ đều bỏ vào túi, vác lên vai, bỏ đi. Đă có người hướng về Ngài thỉnh giáo Phật pháp: “Phật pháp là ǵ?” Ngài bỏ túi xuống bên cạnh, buông thơng hai tay. Mọi người thấy vậy bèn hiểu là “buông xuống”. Phật pháp là ǵ? Buông xuống! Người ta thấy được điều ấy, hiểu ư Ngài. “Sau khi đă buông xuống, nên làm như thế nào?” Ngài quảy túi lên, bỏ đi, chẳng đoái hoài [người hỏi nữa], biểu thị ư nghĩa ǵ? Sau khi buông xuống, phải nâng lên được. Buông xuống được, nâng lên được! “Buông xuống” là buông phiền năo sanh tử xuống, “nâng lên” là ǵ? Phổ độ chúng sanh. Thấy các chúng sanh sanh tử luân hồi trong lục đạo, nhất định phải có ḷng thương xót, tâm từ bi, niệm niệm giúp đỡ họ. Chúng sanh căn cơ chín muồi th́ phải thành tựu họ. Họ đă đạt đến một mức độ nhất định, phải giúp họ giác ngộ, giúp họ minh tâm kiến tánh. Người đă có thiện căn, nhưng c̣n chưa đạt đến mức độ ấy, phải giúp người ấy tăng trưởng. Kẻ chưa phát tâm, phải giúp cho kẻ ấy phát tâm. Bất luận đối với ai, Bồ Tát vừa trông thấy liền biết căn khí của họ, tận tâm tận lực chiếu cố. Lúc văng sanh, Bố Đại ḥa thượng nói với mọi người, công khai nói Ngài là Di Lặc Bồ Tát hóa thân. Nói xong bèn tịch, đó là thật. Nếu Ngài nói xong, vẫn chẳng tịch, th́ đó là gạt người, giả trất! V́ vậy, trong xă hội hiện thời, có rất nhiều người nói: “Kẻ nào đó là Bồ Tát hay Phật nào đó tái lai”, nói xong, kẻ ấy vẫn chẳng tịch. Đó là bịa chuyện đồn thổi!

      Như Bố Đại ḥa thượng là tự ḿnh nói ra, c̣n có những vị bị người khác nói ra thân phận. Thiên Thai Sơn Chí có ghi chép Hàn Sơn, Thập Đắc, ḥa thượng Phong Can, ba vị này là Văn Thù, Phổ Hiền, và A Di Đà Phật; ngài Phong Can là A Di Đà Phật tái lai. Ba vị này chẳng tự ḿnh nói ra, mà do người khác nói. Sau khi nói ra, mọi người biết đến, ba vị ấy đều đi mất. Đó là thật, trong lịch sử tại Trung Quốc, những trường hợp như vậy rất nhiều. Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ cũng là A Di Đà Phật tái lai. Sau này, nếu chúng ta gặp những kẻ nói như vậy, nếu kẻ ấy nói xong vẫn chẳng tịch, hăy khéo khuyến cáo kẻ ấy: “Ngươi là giả, chẳng thật. Nếu là thật, ngươi phải tịch, v́ sao vẫn chẳng tịch? Chứng tỏ ngươi giả trất, sau này đừng nói nữa. Hễ c̣n nói sẽ là ǵ? Là đại vọng ngữ! Ngươi chưa chứng đắc, nhưng tự nói chính ḿnh chứng đắc. Ngay cả trong trường hợp đă đắc Thiền Định, khai trí huệ, đều chớ nên nói. Ngươi chẳng đắc Thiền Định mà nói chính ḿnh đă đắc Thiền Định, chẳng khai trí huệ mà nói chính ḿnh đă khai trí huệ. Ngươi nói những lời lẽ đó nhằm mục đích nào? Toàn là v́ tiếng tăm, lợi dưỡng, gạt gẫm chúng sanh! Trong giới luật của Phật pháp, đó là đại vọng ngữ. Kẻ đại vọng ngữ đều đọa địa ngục. Trước mắt, ngươi có thể đạt được một chút lợi ích, lợi ích nhỏ nhặt, nhưng lừa gạt kẻ khác, sau khi chết, sẽ đọa địa ngục, muốn thoát ra rất phiền! Huống hồ khi đă thoát ra, đă chịu hết tội trong địa ngục, sẽ biến thành súc sanh để trả nợ. Ngươi đă lừa gạt những người đó nên đều phải đền nợ!” Do đó, người hiểu sâu nhân quả, chẳng dám làm chuyện phi pháp. Không chỉ chẳng dám làm, mà nghĩ cũng chẳng dám nghĩ! V́ vậy, đối với đạo hạnh và tu dưỡng của một cá nhân, nhân quả có sức mạnh vượt xa luân lư, đạo đức. Người tu dưỡng đạo đức khá, nhưng gặp phải những thứ gọi là “danh cao, lợi trọng”, vẫn chẳng thể chống nổi sự dụ dỗ, mê hoặc, vẫn có thể phạm lỗi! Chỉ có người tin sâu nhân quả, tuy thấy những thứ đó, tâm vừa động, nhưng nghĩ đến quả báo trong tương lai sẽ là như thế nào, bèn chẳng dám làm!

      Trung Quốc từ xưa tới nay, xă hội ổn định vững bền mấy ngàn năm dựa vào ǵ? Điều chủ yếu nhất là dựa vào giáo dục nhân quả; ba nhà Nho, Thích, Đạo đều có giáo dục nhân quả. Trong xă hội, giảng nhân quả nhiều nhất, nói thật ra, Đạo gia c̣n giảng nhiều hơn Phật. Nhà Phật cũng giảng không ít, nhưng thường là khi giảng kinh chẳng chuyên nói về nhân quả, chỉ nói kèm theo. Do đó, giáo dục nhân quả phổ cập th́ Đạo gia xếp hàng đầu. Quư vị thấy Đạo gia có Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, và Tâm Kinh của Lữ Tổ[1], những thứ ấy đều là của Đạo gia, lưu thông phổ biến trong xă hội. Tốt lắm! Chư vị đă đọc Liễu Phàm Tứ Huấn, thiền sư Vân Cốc trao cho tiên sinh Liễu Phàm sách Công Quá Cách[2], đó là [tác phẩm được biên soạn dựa theo những giáo huấn trong] Cảm Ứng Thiên. V́ thế, tam giáo, tức tam giáo Nho, Thích, Đạo tại Trung Quốc, suốt mấy ngàn năm đă giúp đỡ quốc gia, giúp đỡ xă hội, xác thực là làm rất nhiều chuyện tốt đẹp, giúp cho xă hội an định và ḥa hài. Nay chúng ta nếu muốn thành tựu đạo nghiệp của chính ḿnh, ba căn bản ấy trọng yếu hơn bất cứ ǵ khác. Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên và Thập Thiện Nghiệp. Chúng ta phải nghĩ, phải nhớ Ấn Quang đại sư lăo nhân gia suốt đời đề xướng giáo dục nhân quả. Trong những kinh luận và thiện thư do Hoằng Hóa Xă[3] lưu thông, số lượng lớn nhất là Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, và An Sĩ Toàn Thư. Thuở Ấn Quang đại sư sinh tiền, trong hoàn cảnh thuở ấy, kỹ thuật ấn loát chưa phát triển cho lắm, mà Ngài có thể in ba loại sách ấy nhiều hơn một trăm vạn bản, chẳng phải là chuyện dễ dàng! V́ sao Ngài phải làm như vậy? Nay chúng ta hiểu rơ, nh́n vào xă hội động loạn, thấy tai ương trên địa cầu nhiều ngần ấy, chúng ta mới nhớ tới Ấn Quang đại sư suốt đời cực lực tuyên dương giáo dục nhân quả, chúng ta mới hiểu rơ đạo lư ấy! Nay chúng ta muốn cứu chính ḿnh, trong đại kiếp nạn như thế, tránh né bằng cách nào? Tin sâu nhân quả, quư vị có thể tránh khỏi tai nạn này. Tin sâu nhân quả, chẳng có mảy may hoài nghi, điều này rất trọng yếu!

      Học theo Bồ Tát chứng vô vi, nhưng chẳng chấp trước vô vi. Nay chúng ta ngay cả chứng c̣n chưa chứng; chúng ta biết có pháp vô vi, cũng đừng nên chấp trước pháp vô vi. [Hễ chấp là] trật rồi, biến thành Tiểu Thừa. Nhất định phải học theo các vị Bồ Tát, tâm thường an trụ vững vàng nơi đạo độ thế, niệm niệm mong mỏi chánh pháp tồn tại lâu dài. Bắt đầu làm từ chỗ nào? Bắt đầu thực hiện từ chính ḿnh, ắt phải y giáo phụng hành, chánh pháp mới có thể tồn tại lâu dài. Giúp xă hội hóa giải xung đột, giúp xă hội khôi phục ḥa hài, đều phải làm từ chính ḿnh, đừng đ̣i hỏi người khác, đó là đúng. Chính ḿnh làm tốt, chắc chắn sẽ có thể ảnh hưởng những người chung quanh quư vị. Niệm niệm suy nghĩ v́ chúng sanh khổ nạn, chính ḿnh phải nêu gương cho người khác nh́n vào. Chính ḿnh chẳng nêu gương tốt, quư vị chẳng thể khuyến hóa chúng sanh. Người hiện thời nhất định phải nh́n thấy tấm gương tiêu biểu, quư vị tu tập rất khá, quư vị thực hiện rất tốt, người khác sẽ tôn kính quư vị, học tập theo. Quư vị nói được, nhưng làm chẳng ra ǵ, chẳng có ai tin tưởng, quư vị chẳng thể giúp cho chánh pháp tồn tại lâu dài. Nếu con người mang ư niệm v́ chính ḿnh th́ tu hết thảy thiện pháp, quả báo đều là si phước trong lục đạo, chẳng phải là công đức, chẳng có mảy may dính líu đến chuyện liễu sanh tử, thoát tam giới của chính ḿnh! Niệm niệm chẳng v́ chính ḿnh, niệm niệm v́ chúng sanh khổ nạn, niệm niệm mong cứu vớt địa cầu, đó là công đức, toàn bộ hết thảy những việc thiện do quư vị đă làm đều là công đức. Chỉ cần có tự tư tự lợi, đặt danh lợi vào trong ấy, sẽ là chẳng đúng. Chớ nên không hiểu đạo lư này!

      Câu cuối cùng: “Hựu Hội Sớ viết: Bi trí tương ấn, dĩ vi thê thần chi trạch, cố vân đế trụ” (Sách Hội Sớ lại viết: “Bi trí in vào nhau để làm chỗ nương náu cho thần trí, nên gọi là Đế Trụ”). Câu này có ư nghĩa: Tâm này trụ tại đâu? Trụ trong trí huệ, trụ trong đại từ đại bi. Bi là thương xót hết thảy chúng sanh khổ nạn, Từ là giúp chúng sanh ĺa khổ được vui. Trong thế gian này, vào thời cổ, chúng ta nói là “xă hội”, người ta thường kính phục nhất hai loại người:

1) Một là người dạy học. Thời cổ, họ được gọi là “phu tử”. Quư vị làm nghề ǵ? Làm phu tử là dạy học, giúp người khác phá mê khai ngộ. Người dạy học rất vất vả, v́ sao? Chính ḿnh phải nêu gương cho người khác thấy. Nếu quư vị chẳng làm được những ǵ đă nói, ai nghe lời quư vị? V́ lẽ đó, luân lư, đạo đức, nhân quả họ đều làm được. Cuộc sống rất kham khổ, nhưng người trong xă hội rất tôn kính họ. Trước kia, dạy học là sự nghiệp thánh hiền. Gia cảnh học tṛ nghèo khó, chẳng cúng dường thầy, thầy có dạy hay không? Vẫn dạy y hệt. Quả thật, gia đ́nh [học tṛ] rất thanh bần, có lúc thầy c̣n giúp đỡ tṛ. Chẳng nói “phải thu học phí”, há có lẽ ấy? [Nếu làm như vậy], đă biến thành hành vi buôn bán mất rồi! Vào thời cổ, tại Trung Quốc, thương nhân có địa vị thấp nhất. [Các giai cấp trong xă hội là] sĩ, nông, công, thương, người đọc sách có địa vị cao nhất, nhưng người đọc sách thường rất kham khổ, chẳng có thâu nhập. Thương nhân giàu có nhất, nhưng địa vị trong xă hội thấp nhất.

2) Một loại người khác là thầy thuốc. Thầy thuốc cứu người, học y để làm ǵ? Học y để cứu người. V́ thế, thầy giáo cứu huệ mạng của người khác, thầy thuốc cứu thân mạng.

Hai loại người này đều chẳng phải là thương nhân, đều chẳng đ̣i hỏi tiền bạc, mà là cứu người. Hiện thời, hai loại người này cũng biến thành hành vi buôn bán, cổ nhân chẳng thể nào tưởng tượng được! Người tu hành được người trong xă hội tôn kính v́ sao? Đạo giáo cũng thế, mà Phật giáo cũng vậy, đều là giáo học, chư vị phải biết điều này! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, dạy học cả đời suốt bốn mươi chín năm. Ba mươi tuổi khai ngộ, vừa khai ngộ liền bắt đầu giáo học, suốt bốn mươi chín năm chẳng gián đoạn ngày nào. Có thâu học phí hay không? Chẳng thâu! Cuộc sống trong Phật môn theo h́nh thức khất thực, chẳng nhận một đồng nào. Trong giới luật đă nói rất rơ ràng, chẳng có hành vi thương nghiệp, chẳng có ư niệm thương nghiệp. Chúng ta chớ nên không biết điều này!

      Sau khi Phật giáo được truyền đến Trung Quốc do đế vương Trung Hoa thỉnh [tăng sĩ] từ Tây Vực, hoặc từ ngoại quốc đến. Sau khi đă thỉnh đến Trung Quốc, qua trao đổi, mới biết Phật pháp hoàn toàn tương ứng với truyền thống giáo dục Trung Quốc, chẳng có mảy may mâu thuẫn, nên người Hoa bèn tiếp nhận, tiếp nhận trọn vẹn. Phật giáo truyền đến Trung Quốc vào năm Vĩnh B́nh thứ mười đời Hán Minh Đế, tức là năm 67 Công Nguyên. Hiện thời là năm 2010 Công Nguyên. Năm 67 Công Nguyên, Phật giáo được chính thức mời đến Trung Quốc, hoàng đế phong hai vị pháp sư (Trúc Pháp Lan và Ca Diếp Ma Đằng) làm quốc sư. Giáo dục nhà Phật do hoàng đế đích thân cai quản, c̣n giáo dục truyền thống do Tể Tướng cai quản. Dưới Tể Tướng có một bộ, nói theo kiểu hiện thời là bộ Giáo Dục, xưa kia gọi là bộ Lễ. Lễ Bộ Thượng Thư chuyên cai quản nền giáo dục quốc dân và giáo dục xă hội, cai quản chuyện này. Giáo dục nhà Phật do hoàng thượng quản trị, nên giáo dục nhà Phật được thúc đẩy với sức mạnh vượt trỗi giáo dục truyền thống của Trung Quốc, được triển khai rất nhanh trên cả nước, dấy lên tác dụng rất lớn. V́ thế, điểm đặc biệt và đặc sắc trong văn hóa truyền thống Trung Quốc là ba nhà Nho, Thích, Đạo đă giúp nhau thành tựu, tạo thành văn hóa Trung Quốc. Tiến sĩ Thang Ân Tỷ (A. Toynbee) của Anh đă nói rất hay. Ông ta tán thán cổ nhân Trung Hoa có tâm lượng rất lớn, chẳng ganh tỵ, chẳng bài xích, có thể bao dung văn hóa dị tộc, ư nói Phật giáo. Phật giáo từ Ấn Độ truyền tới, mà [dân Trung Hoa] có thể bao dung, Phật pháp lại phong phú hóa nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc. Chúng ta gọi điều này là “tương phụ tương thành” (giúp đỡ lẫn nhau cùng thành tựu).

      Đức Phật nói điều ǵ? Dùng một câu để trả lời. Kinh Bát Nhă đă nói: Chư pháp Thật Tướng”, trong phần trước, chúng ta đă từng đọc thấy Chân Thật Tế là Thật Tướng của các pháp. Nói rơ hơn một chút, đó là chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Đó chẳng phải là mê tín, mà là triết học, là khoa học. Do đó, thuở sinh tiền, tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật giáo cho tôi, đă bảo: “Thích Ca Mâu Ni Phật là triết gia vĩ đại nhất trên cả thế giới. Triết học trong kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết học toàn thế giới. Học Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người”. Tôi vào Phật môn là như vậy. Học Phật năm mươi chín năm, sang năm là sáu mươi năm, đúng một giáp tư[4], phát hiện thầy Phương chỉ nói đến triết học, chưa nói đến khoa học. Trong kinh Hoa Nghiêm, trong các kinh luận Đại Thừa có khoa học, nói theo kiểu của thầy, lại c̣n là đỉnh cao nhất trong khoa học cả thế giới. Không chỉ là đỉnh cao nhất trong triết học, mà c̣n là đỉnh cao nhất trong khoa học. Khoa học hiện thời phát triển theo hai cực đoan: Một là hướng theo vật lư không gian, tức thế giới vĩ mô; hai là theo hướng Lượng Tử Lực Học, tức là thế giới vi mô. Hai loại này trong kinh Hoa Nghiêm đều có cả, thật sự chẳng thể nghĩ bàn, lại c̣n giảng hay hơn khoa học và triết học hiện thời. Khoa học và triết học hiện thời c̣n có những vấn đề gây tranh luận, cho đến hiện thời chưa thể giải quyết, nhưng trong kinh Phật [những vấn đề ấy] đều được giải quyết. Đại học vấn, đại đạo lư! Những thứ tốt đẹp như thế không có ai kế thừa, không có ai muốn học, quá đáng tiếc! Đă thế, Đại Thừa Phật pháp bị người ta chê bai là tôn giáo, chê bai là mê tín, khiến cho người b́nh phàm chẳng mong tiếp xúc, quá đáng tiếc nuối!

      V́ lẽ đó, tôi cảm tạ thầy Phương, niệm niệm đều chẳng quên. Nếu tôi không gặp thầy, cũng sẽ có kiến giải giống như mọi người, nghĩ Phật giáo là mê tín, như vậy th́ sẽ vĩnh viễn chẳng thể tiếp xúc. Sau khi tiếp xúc, Phật giáo đă cứu tôi, khiến cho tôi sống trong xă hội như vậy mà rất hạnh phúc, rất tự tại, chẳng có ưu lự, chẳng có phiền năo, Đại Thừa Phật pháp đă ban cho tôi những điều ấy. Dần dần hiểu biết những sự lư, tánh tướng, nhân quả trong vũ trụ, biết chúng là chuyện như thế nào. Hy vọng người thiện căn sâu dầy, các đồng học trẻ tuổi hăy nghiêm túc học tập. Đầu tiên, quư vị phải nhận biết bản chất Phật giáo. Sau khi đă nhận biết, quư vị mới ưa thích, quư vị mới có thể dùi mài chẳng bỏ, sẽ có thể đạt thành tựu trong một đời này, xác thực đem lại cho quư vị hạnh phúc mỹ măn. Đă thế, tương lai sẽ càng mỹ măn hơn, hạnh phúc hơn, đạt đến rốt ráo. Kinh Vô Lượng Thọ là được rồi, có thể khiến cho chúng ta chứng đắc cảnh giới giống như Phật, Bồ Tát ngay trong một đời.

      Câu kế tiếp: “Ư nhất thiết vạn vật, tùy ư tự tại” (tùy ư tự tại trong hết thảy vạn vật). Quư vị đọc kinh văn này, càng đọc, càng thù thắng. Câu này chính là niềm kỳ vọng của bao nhiêu nhà triết học, khoa học, thần học, hy vọng có thể có ngày này! Thật sự có thể đạt được trong Phật pháp Đại Thừa, chẳng phải là nói giả dối, thật sự có thể đạt được tự tại tùy ư. Chữ “vạn vật” (萬物) chỉ hết thảy các pháp, chỉ vạn pháp. “Vạn” ở đây chẳng phải là một con số, mà nhằm biểu thị ư nghĩa cực nhiều, vô lượng, vô biên, vô số, vô tận; vạn sự vạn vật trong vũ trụ. “Tự tại giả, thông đạt vô ngại dă” (tự tại là thông đạt vô ngại). Quư vị hoàn toàn liễu giải, chẳng có chướng ngại, tự tại lắm. Lấy chuyện trước mắt để xem, v́ sao ta sống trong thời đại này? V́ sao sống cuộc đời như hiện thời? Ta biết, hiểu rơ ràng, rành mạch, v́ sao quư vị chẳng thể tự tại? V́ sao quư vị khổ như vậy? V́ quư vị chẳng biết, chẳng liễu giải. Do chẳng liễu giải, nên hằng ngày suy nghĩ loạn xạ, đau khổ lắm! Trong ấy là nhân quả, nếu quư vị biết tiền nhân, hậu quả, trong hoàn cảnh nào, quư vị cũng đều rất sung sướng. V́ sao? Tự làm, tự chịu, chẳng thể oán trời, chẳng thể trách người. V́ sao? Chẳng liên quan ǵ đến những điều ấy! V́ thế, quư vị bèn giải thoát. Hiện thời, tai nạn trên địa cầu nhiều ngần ấy, nếu quư vị thật sự thông đạt, hiểu rơ, hiểu rơ rệt các tai nạn ấy do đâu mà có, hoàn toàn liễu giải cách hóa giải các tai nạn ấy như thế nào, lẽ nào quư vị chẳng được tự tại! Các vị Bồ Tát dự hội đều có năng lực ấy. Do có năng lực ấy, nên mới có thể giúp đỡ người khác.

      Trong phẩm Tự của kinh Pháp Hoa có hai câu như sau: “Tận chư hữu kết, tâm đắc tự tại” (hết sạch những thứ phiền năo trong ba cơi, tâm được tự tại), hai câu này nói hay quá! Chư hữu”, “hữu” () ǵ vậy? Hữu kết, kết là ǵ? Kết () là phiền năo. Giống như tôi nhớ trước kia có bộ phim, tôi chưa xem phim ấy, chỉ là trên đường đi thấy biển quảng cáo “tâm hữu thiên thiên kết” (tâm vấn vương ngàn mối), rất đáng thương, rất đáng buồn! Hữu là ǵ vậy? Hữu là nói tới tam hữu, tức Dục Giới Hữu, quư vị có phiền năo và quả báo trong Dục Giới, Sắc Giới Hữu, Vô Sắc Giới Hữu. Hữu là có nhân, có quả. “Tận chư hữu kết” là quư vị buông hết những phiền năo ấy xuống, chẳng c̣n nữa. Trong tam giới th́ Dục Giới ba thứ phiền năo đều có, Vô Minh phiền năo, Trần Sa phiền năo và Kiến Tư phiền năo toàn bộ đều có. Quư vị có thể đoạn Kiến Tư phiền năo; nói thật ra, các món Hữu Kết ấy, nói nông cạn là Kiến Tư phiền năo, thuộc trong tam giới. Đă đoạn Kiến Tư phiền năo, tâm đắc tự tại. Tự tại là ǵ? Vượt thoát lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi giống như một cái lồng to, kinh Phật sánh ví nó như lao ngục. Tam giới là lao ngục, quư vị chẳng thoát khỏi nhà tù ấy. Đoạn sạch các Kết trong Tam Hữu, tức là đoạn Kiến Tư phiền năo, quư vị bèn vượt thoát. Sau khi vượt thoát, hăy c̣n bốn thánh pháp giới. Bốn thánh pháp giới rất khó vượt thoát. So với người trong lục đạo như chúng ta th́ người ở trong ấy (trong bốn thánh pháp giới) là đắc đại tự tại, nhưng nếu so với Phật, Bồ Tát, họ thua kém rất xa. V́ không gian hoạt động của họ chỉ có thể là trong tam thiên đại thiên thế giới, chưa thể vượt thoát. V́ thế, họ phải đoạn hết Trần Sa phiền năo, đoạn hết Vô Minh phiền năo, sẽ đắc đại tự tại. Các vị Bồ Tát ở đây là Pháp Thân Bồ Tát, đă vượt thoát mười pháp giới. Tuy vượt thoát mười pháp giới, nhưng chẳng ĺa mười pháp giới, khéo là khéo ở chỗ này. Vượt thoát lục đạo luân hồi, nhưng cũng chẳng rời khỏi lục đạo luân hồi. Quư vị phải biết: Các Ngài ở trong lục đạo, nhưng chẳng tạo nhân lục đạo, cũng không thọ báo lục đạo. Tâm các Ngài trụ nơi đâu? Trong phần trước đă nói, tâm các Ngài thường trụ trong đạo độ thế, trụ trong đại trí huệ, trụ trong từ bi, chúng ta nói là “một bầu từ bi”. Từ bi do đâu mà có? Do trí huệ mà có. Chẳng có trí huệ, lấy đâu ra từ bi?

      Tiếp theo đó, sách giải thích chữ Tự Tại: “Hựu, tự tại giả, thi vi vô ủng, thần thông tự tại. Phù tâm hữu câu lụy, tùy vật nhi chuyển. Cố vị phiền năo sở phược” (tự tại c̣n là việc làm không bị úng tắc, thần thông tự tại. Hễ tâm có vướng mắc th́ bị vật chuyển, nên bị phiền năo trói buộc). Giải thích chữ “tự tại”, những điều này đều được nói trong kinh Đại Thừa. “Thi vi” (施為) là tạo tác. Chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác chẳng có chướng ngại. V́ sao chẳng có chướng ngại? Hiểu rơ ràng, rành rẽ hết thảy các pháp. Đối với hết thảy các pháp trong vũ trụ, hỏi quư vị Thái Dương Hệ do đâu mà có? Hệ Ngân Hà do đâu mà có? Hết thảy các cơi Phật do đâu mà có? Chẳng có ǵ quư vị không biết, lại c̣n biết chánh xác, thật sự biết, tuyệt đối chẳng phải là hư vọng. Đối với Thể của hết thảy các pháp, Thể là Tánh. Những h́nh tượng được hiện của hết thảy các pháp, [được gọi chung là] “pháp tướng”. Rốt cuộc, Tánh và Tướng là đạo lư như thế nào? Đối với Lư, v́ sao có Sự, tức là các hiện tượng xuất hiện nhiều ngần ấy? Quư vị đều hiểu. Trong ấy, có thiện nhân, thiện quả, ác nhân, ác quả. Không chỉ hoàn toàn hiểu rơ tam thiên đại thiên thế giới của Phật Thích Ca, mà các cơi Phật trong mười phương, chẳng có cơi nào quư vị chẳng hiểu rơ. Sau khi đă hiểu, quư vị muốn tới đâu bèn tới đó, thuận theo ư niệm của quư vị xoay chuyển. Trong cảnh giới ấy, chẳng có thời gian, chẳng có không gian. Chẳng có thời gian, bèn chẳng có trước, sau. Chẳng có không gian, bèn chẳng có khoảng cách. Thế giới Cực Lạc ở nơi đâu? Thế giới Cực Lạc ở ngay trong hiện tiền. Thật đấy, chẳng giả! Công đức viên măn trong tự tánh mà! Mười phương ba đời chẳng ĺa gang tấc, “gang tấc” là nhất niệm, chẳng ĺa gang tấc! Đó là tột đỉnh của khoa học lẫn triết học, là đỉnh cao nhất như tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nói. “Thần thông tự tại, thông đạt vô ngại”, tám chữ trong hai câu này là nói về các vị Bồ Tát ấy. Phàm phu th́ sao? “Tâm hữu câu lụy”, [nghĩa là] trong tâm quư vị có những thứ câu thúc, ràng buộc, vướng bận. Chúng tôi nói là trong tâm quư vị có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, ưu lự, vướng mắc, phiền năo. “Tùy vật nhi chuyển” [nghĩa là] bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, nên quư vị khổ khôn kể xiết! V́ sao? Cảnh giới bên ngoài là “giả tượng” (những hiện tượng hư giả), cớ sao quư vị coi chúng là thật? Quư vị biết chúng là những hiện tượng hư giả, nên có thể thưởng thức nó, nhưng chẳng có ư niệm chiếm hữu, hay khống chế, liền tự tại. Nếu quư vị muốn khống chế, muốn chiếm hữu nó, quư vị phải chịu tội. Tội ấy là ǵ? Chính quư vị tự chuốc lấy, tự làm, tự chịu. Về căn bản, nó chẳng có, nên chịu tội là oan uổng chịu! V́ lẽ đó, quư vị bị phiền năo trói buộc, phiền năo giống như sợi dây thừng trói chặt quư vị!

      “Phàm phu trước Hữu” (phàm phu chấp Có), lục đạo phàm phu chấp vào bên Có, người Nhị Thừa th́ sao? Đức Phật dạy họ “vạn pháp đều là Không”, Không ư? Được rồi, họ chấp vào Không, “giai đọa t́nh chấp trung” (đều đọa trong t́nh chấp). Chấp Có là t́nh chấp, mà chấp Không vẫn là t́nh chấp. V́ lẽ đó, Nhị Thừa chẳng thoát khỏi mười pháp giới, v́ họ chấp trước Không. Người nào thoát khỏi mười pháp giới? Hai bên Có và Không đều chẳng chấp, ngay cả “chẳng chấp” cũng không có, mới thật sự thoát ra ngoài. Hễ c̣n “hai bên Có và Không đều chẳng chấp”, quư vị đă chấp vào “hai bên Có và Không đều chẳng chấp”, vẫn chẳng thể thoát ra được! Tâm người ấy vẫn chưa thanh tịnh. Phải biết rằng: Trong chân tâm, thứ ǵ cũng đều chẳng có! Trong các buổi giảng, chúng tôi đă nói chuyện này quá nhiều, phải thường xuyên nhắc nhở mọi người: Trong chân tâm, chân tâm chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, quyết định chẳng có mười pháp giới, huống ǵ lục đạo. Mười pháp giới, lục đạo là huyễn tướng, nên trong kinh có tỷ dụ “mộng, huyễn, bọt, bóng”, chúng chẳng phải là thật. V́ sao không buông xuống được? Quư vị chẳng biết chúng là giả, cứ ngỡ chúng là thật, nên quư vị chấp trước, chịu khổ. Chịu khổ, chấp trước đúng là oan uổng! Quư vị muốn chiếm hữu, nói thật ra, ngay cả thân thể này cũng chẳng thể chiếm hữu! Quư vị có thể chiếm hữu cái ǵ? Nếu thật sự liễu giải chân tướng sự thật, giống như các nhà Lượng Tử Lực Học hiện thời đă nói, vật chất là ǵ? Họ đă phát hiện bản chất vật chất vốn là do ư niệm tích lũy liên tục, sanh ra huyễn tướng. Nói cách khác, họ cảm nhận: Về căn bản, chẳng có vật chất tồn tại. Phát hiện ấy và cách nói ấy hoàn toàn giống như kinh Hoa Nghiêm đă dạy. Kinh Hoa Nghiêm nói A Lại Da có ba phần là Tự Chứng Phần, Kiến Phần, và Tướng Phần[5]. Tướng Phần là vật chất. Do đâu mà có Tướng Phần? Do Kiến Phần biến hiện. V́ thế, nhà Phật thường dùng năm chữ để làm đại biểu, [tức là] Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, gọi chung là Ngũ Uẩn, nói thật hay! Ngũ Uẩn là vạn sự vạn pháp mà chúng ta tiếp xúc, Ngài đă nói ra chân tướng. Sắc trong Ngũ Uẩn là hiện tượng vật chất; Thọ, Tưởng, Hành, Thức là ư niệm. Thọ là cảm nhận, Tưởng là tư tưởng, Hành là hiện tướng tích lũy liên tục như các nhà khoa học đă nói, Thức là kho tài liệu (database) tồn trữ những ư niệm ấy, giống như các linh kiện điện tử (chips) trong computer, toàn là giả, chẳng có thứ ǵ là thật. Tâm Kinh đă nói rất hay: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị”. Quư vị đối với mười pháp giới trong vũ trụ này, c̣n có ǵ để lưu luyến? Quư vị đă hoàn toàn hiểu rơ, minh bạch, tự nhiên sẽ triệt để buông xuống.

      Triệt để buông xuống có lợi ích ǵ? Chẳng có phiền năo, chẳng có ưu lự, chẳng có vướng mắc. Lại nói cho quư vị biết: Thân thể quư vị sẽ không suy, không già, quư vị đạt được thân Kim Cang bất hoại, sẽ chẳng c̣n ngă bệnh nữa. Bệnh do đâu mà có? Nguyên nhân gây bệnh là tham, sân, si, mạn, nghi, [chúng được gọi chung là] Ngũ Độc. Đó là nguyên nhân gây bệnh. Duyên gây bệnh có nội và ngoại. Bên trong là oán, hận, năo, nộ, phiền, đó là nội duyên. Duyên bên ngoài là ǵ? Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Ba thứ ấy kết hợp lại, bệnh nặng liền phát tác, đ̣i mạng quư vị! Không thoát khỏi những thứ ấy, quư vị vĩnh viễn phải luân hồi trong lục đạo, đúng là đáng thương. V́ sao? Toàn là giả! Nếu chúng là thật, Phật, Bồ Tát chẳng thể nói quư vị là “kẻ đáng thương xót”, nói những lời ấy sẽ thành quá lố, biến thành mỉa mai, Phật làm sao có thể nói như vậy được? Chúng là giả, toàn là giả, giống như gặp ác mộng. Mỗi ngày gặp ác mộng, kinh hoảng mướt mồ hôi lạnh, chẳng có bệnh mà bị dọa sợ cũng đổ bệnh! V́ thế, nếu quư vị thật sự thông đạt, hiểu rơ, thân tâm sẽ chẳng có bệnh tật, chính ḿnh vui sướng lắm! Quư vị ở nơi đâu, núi, sông, đại địa đều chẳng có tai nạn. Phong tai, thủy tai, hỏa tai ǵ ǵ đi nữa, những thứ ấy đều chẳng có, ngay cả khí hậu biến đổi đột ngột cũng chẳng có, mà cũng đều chẳng thể! V́ sao? Cảnh chuyển theo tâm. Tâm thái của quư vị b́nh thường, núi, sông, đại địa, cảnh giới bên ngoài cũng đều b́nh thường. Tâm chẳng b́nh thường, nó cũng chẳng b́nh thường, bên ngoài đều chẳng b́nh thường, đạo lư là như vậy đó! V́ thế, để biến đổi những tai biến dị thường trên địa cầu th́ phải biến đổi từ tâm chúng ta. Tâm chúng ta cảm ứng cảnh giới bên ngoài. Tâm đă sửa đổi th́ tai nạn bên ngoài cũng chẳng có! Đó là đạo lư to lớn! Những vấn đề khoa học chẳng thể giải quyết th́ đă hoàn toàn được giải quyết trong Phật pháp. Đây là nói về Nhị Thừa, phàm phu chấp Có, Nhị Thừa vướng mắc nơi Không, đều đọa trong t́nh chấp. “Hàm thị tâm tùy vật chuyển, cố ư vạn vật bất đắc tự tại” (đều là tâm chuyển theo vật, nên chẳng đạt được tự tại trong vạn vật), v́ sao? Tâm quư vị bị cảnh chuyển! Hễ đắc đại tự tại th́ vật chuyển theo tâm. Gạt bỏ được chuyện “tâm chuyển theo vật”, vật sẽ chuyển biến theo tâm, vấn đề liền được giải quyết.

      “Đại sĩ thâm đạt Pháp Tánh” (đại sĩ thông đạt Pháp Tánh sâu xa), những vị này được gọi là “đại sĩ”, đều có thể gọi là bậc minh tâm kiến tánh, hoặc chúng ta có thể nói như thế này: Họ là những người công phu niệm Phật đến nơi đến chốn. Công phu đến nơi đến chốn là Lư nhất tâm bất loạn. Lư nhất tâm bất loạn có cùng cấp bậc, cùng một tầng cấp với minh tâm kiến tánh trong Thiền Tông, đều vượt thoát mười pháp giới, đều chứng đắc Nhất Chân pháp giới. Đó là pháp giới chẳng có hai thứ sanh tử, hiện tượng Phần Đoạn và Biến Dịch hoàn toàn chẳng có, là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Những vị Bồ Tát ấy không chỉ thông đạt, mà c̣n “thâm đạt”. Nếu nói “đại sĩ thông đạt Pháp Tánh” th́ đó là Sơ Trụ trong Viên Giáo. Sơ Trụ Bồ Tát đă thông đạt; từ Nhị Trụ trở lên, có thể nói là “thâm đạt”. “Đương tướng ly tướng, bất tùy vật chuyển, cố vô phược hệ” (từ ngay nơi tướng mà ĺa tướng, chẳng bị vật chuyển, nên chẳng có trói buộc), chúng ta phải học điều này. “Đương tướng” (當相) là tướng ở trước mặt ta, “ly tướng” (離相) là như thế nào? Ta đối với tất cả những tướng đă hiện đều chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, sẽ chẳng có chuyện ǵ nữa, liền ĺa tướng. Nếu quư vị ngỡ tướng là thật, nếu thấy hiện tướng bày ra trước mặt, bất luận là hiện tướng ǵ, bèn ngay lập tức nghĩ hiện tướng ấy là do ư niệm liên tục tích lũy phát sanh huyễn tướng. Quư vị có thể có cách nh́n như vậy th́ được rồi, nó đă bị quư vị nh́n thấu suốt, [nó là] hư huyễn, chẳng thật, tự nhiên buông xuống, ngay lập tức quư vị đắc tự tại. V́ sao quư vị chẳng buông xuống được? Nói thật ra, quư vị đă mê quá sâu, đă mê quá lâu, từ vô thỉ kiếp tới nay, luân hồi sanh tử trong lục đạo, quư vị thấy thời gian ấy lâu dài như thế nào? V́ thế, mê đă lâu lắm rồi! Loại mê hoặc, điên đảo, loại tập khí ấy được gọi là tập khí vọng tưởng, quá ư là sâu. Nay vừa mới nghe Phật pháp, do nghe Phật pháp chẳng sâu, nên cảnh giới hiện tiền, vẫn y như cũ, chẳng thể chuyển được! Nghe trên mười năm, hai mươi năm, sẽ hiểu rơ hơn, nhưng vẫn chẳng chuyển được! Do nguyên nhân nào? Nguyên nhân thật sự là do quư vị chẳng thật thà, chẳng nghe lời, chẳng thật sự hành. Nếu thật thà, nghe lời, thật sự hành, chẳng cần tốn thời gian rất dài! Trong lịch sử Trung Quốc, bất luận Tông Môn, Giáo Hạ, Hiển Giáo, hay Mật Giáo, người ba năm hoặc năm năm khai ngộ rất nhiều, v́ họ buông xuống. Người mười mấy năm, hai mươi năm bèn buông xuống cũng chẳng ít!

Chúng ta xem những ghi chép lịch sử trong Phật môn, tôi ước đoán, trong hai ngàn năm qua, kể từ khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, người thật sự tu hành đạt tới cảnh giới này, tôi ước đoán tối thiểu là ba ngàn người. Họ có thể làm được, v́ sao chúng ta không làm được? T́nh chấp! Phải luyện tập, rèn luyện trong cuộc sống hằng ngày. Đầu tiên là luyện đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện. Chư vị phải biết: Công phu ấy luyện thành, chỉ là quư vị quyết định chẳng đọa trong ba ác đạo, có thể đảm bảo quư vị sẽ sanh trong cơi trời người của lục đạo, đó chưa phải là pháp rốt ráo. Thật sự luyện chẳng thành, chính ḿnh chẳng nắm chắc, chẳng thể từ ngay nơi tướng mà ĺa tướng, chẳng bị vật chuyển. [Nếu] không thể làm được như vậy, hăy thật thà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, hoàn cảnh sẽ khác hẳn. V́ sao? Nói thật thà, hoàn cảnh bên kia là hoàn cảnh sống của chư Phật, Bồ Tát, Pháp Thân đại sĩ, [thế mà] bọn phàm phu chúng ta cũng tiến nhập, chẳng thể nghĩ bàn! V́ vậy, đúng là pháp khó tin! V́ sao chúng ta có thể tiến nhập? Đó là do A Di Đà Phật đại từ đại bi giúp đỡ chúng ta. Quư vị thấy trong một đời sanh về thế giới Cực Lạc, đều thành A Duy Việt Trí Bồ Tát. Ở đây, A Duy Việt Trí được gọi là “đại sĩ”. [Các vị đại sĩ] thông đạt sâu xa Pháp Tánh, từ ngay nơi tướng mà ĺa tướng, chẳng bị vật chuyển. V́ thế, quư vị đến thế giới Cực Lạc, bốn mươi tám nguyện, bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật hoàn toàn gia tŕ quư vị, quư vị thật sự được thọ dụng, sẽ chẳng chấp tướng! Tướng dẫu thù thắng cách mấy, chẳng dẫn khởi ái niệm. Tướng dẫu xấu đến mấy, như A Tỳ địa ngục [chẳng hạn], cũng chẳng dẫn khởi ư niệm oán hận. Những ư niệm ấy đều chẳng dấy lên được! Hàng phàm phu chỉ có phương pháp này để sử dụng; v́ thế, phương pháp này được mười phương chư Phật tán thán. Các Ngài chẳng tùy tiện tán thán, mà là do có đạo lư nên mới tán thán. V́ thế mới nói: Chỉ cần quư vị học pháp môn Tịnh Độ này, thật sự hành, chẳng có ai không văng sanh! Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ là Pháp Thân đại sĩ; tuy chính ḿnh vẫn chưa chứng đắc, nhưng chỉ cần văng sanh liền đạt được, phải cảm ân đức của A Di Đà Phật, do lăo nhân gia gia tŕ, nên quư vị thật sự được thọ dụng. Sự thọ dụng ấy chẳng giả, đấy cũng là ư nghĩa của bốn câu được nói ở đây: Hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới liền chứng đắc, thông đạt sâu xa Pháp Tánh, từ ngay nơi tướng mà ĺa tướng, chẳng bị vật chuyển, nên chẳng bị trói buộc. “Phược hệ” (縛繫: trói buộc) là phiền năo; sang bên đó bèn đoạn sạch phiền năo.

      “Tông Môn vân: Đản tự vô tâm ư vạn vật, hà phương vạn vật thường vi nhiễu” (Nhà Thiền nói: “Chỉ cần vô tâm với vạn vật, nào ngại vạn vật thường vây quanh”). Nói thật ra, trong nhà Thiền cũng là nói đến cảnh giới này; nhưng câu vừa trích dẫn trên đây quan trọng, v́ đối với hết thảy vạn vật, quư vị phải vô tâm th́ mới được. Tâm ấy là tâm ǵ? Tâm vọng tưởng, tâm phân biệt, tâm chấp trước, quư vị có các tâm ấy là không được. Những tâm ấy thảy đều chẳng có, chẳng có chấp trước, chẳng có phân biệt, chẳng khởi tâm động niệm; đó là Pháp Thân Bồ Tát. Các Ngài ḥa quang đồng trần, cùng ở chung, cùng sống với chúng ta. Trên thực tế là sống trong hai kích thước không gian khác nhau. Các Ngài biết chúng ta, chúng ta chẳng biết các Ngài. Có người như vậy hay chăng? Có chứ! Đời Tống, chúng ta thấy một vị là Tế Công. Thưa cùng quư vị, Tế Công là người có thật, chẳng giả! Nhưng quư vị đọc [các sách tiểu thuyết mang tên là] Tế Công Truyện được bán ngoài đời th́ chẳng đáng tin, trong ấy chép rất nhiều thứ bịa đặt. Nếu muốn đọc, hăy đọc Cao Tăng Truyện. Trong Cao Tăng Truyện, truyện của Tế Công phân lượng đúng là chẳng ít, dường như là có bốn quyển! Truyện kư về Ngài đặc biệt nhiều, [tiểu truyện của] những người khác chỉ chép một chương, truyện kư về Ngài gần như chiếm hết bốn quyển. Cao Tăng Truyện đáng tin cậy, Ngài xác thực là “vạn vật thường vây quanh mà chẳng trở ngại”.

      Trong thời đại này của chúng ta, cũng là nói về thời trước một chút, tức là vào bảy mươi năm trước, tại chùa Kim Sơn huyện Trấn Giang tỉnh Giang Tô, có một vị pháp sư tên là Diệu Thiện, tức là pháp sư Diệu Thiện. Hành tŕ của lăo nhân gia chẳng khác Tế Công cho mấy. Ngài thị hiện, đúng là chẳng giả. Hai câu nói ấy (chỉ cần vô tâm với vạn vật, nào ngại vạn vật thường vây quanh”) đúng là để h́nh dung Ngài. Ở Đài Loan, tôi đọc hai quyển sách, tác giả tôi đều quen biết cả. Một vị là pháp sư Chử Vân. Sư chưa từng gặp gỡ pháp sư Diệu Thiện, nhưng biết có vị ấy, nên đi khắp nơi hỏi thăm. Có người đă từng gặp mặt Ngài, biết chuyện Ngài, Sư biên soạn [những lời kể] thành một quyển sách, đặt tựa đề là Kim Sơn Hoạt Phật (Phật sống chùa Kim Sơn). Pháp sư Diệu Thiện mất khi cuộc Kháng Chiến [chống Nhật] sắp kết thúc, Ngài tịch tại Miến Điện. Vị này suốt đời mặc một bộ quần áo, bên trong là quần đùi, bên ngoài là áo dài. Suốt đời mặc bộ quần áo ấy, trời Đông cũng chẳng lạnh, trời Hạ cũng chẳng nóng. Quư vị thấy lạ như thế đó! Mời Ngài dùng cơm, Ngài cho chúng sanh thỏa nguyện. Quư vị xới một chén cơm đưa cho Ngài, Ngài ăn ngay trước mặt quư vị; [người dâng cơm khoan khoái]: “Pháp sư rất thích tôi”. Tín đồ khá đông, mỗi người đều xới một chén đưa cho Ngài. Trong chốc lát, Ngài ăn hai mươi mấy chén; bên cạnh có người nói: “Các vị chớ nên hại thầy, sao lại đối đăi với pháp sư như thế?” Ngài bảo người vừa mới nói: “Bất tăng, bất giảm”. Ngài cũng có thể suốt tuần không uống nước, không ăn cơm, cũng có thể một ngày ăn mấy chục chén, bất tăng, bất giảm mà! Chuyện của Ngài rất nhiều, là thật, chẳng giả. Ngài cách chúng ta không xa. Hiện thời đă hết thời gian rồi, ngày mai chúng tôi lại tiếp tục kể chuyện cho mọi người nghe. À! Cảm ơn mọi người!

 

Tập 134

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm năm mươi mốt, câu cuối cùng nơi hàng cuối cùng.

      “Tông Môn vân: Đản tự vô tâm ư vạn vật, hà phương vạn vật thường vi nhiễu” (Nhà Thiền nói: “Chỉ cần vô tâm với vạn vật, nào ngại vạn vật thường vây quanh”). Thiền Tông thường nói chuyện này, đó là cảnh giới giác ngộ. Thật sự giác ngộ th́ cũng có thể nói là sẽ thật sự liễu giải khá nhiều hiện tượng trong vũ trụ, hiểu rơ chúng rốt ráo là chuyện như thế nào, hiểu rơ ràng, rành rẽ th́ gọi là “thông đạt chư pháp Thật Tướng”. Cái hay của thông đạt là chẳng c̣n mê nơi huyễn tướng, đó là điều tốt đẹp thứ nhất. Điều tốt đẹp thứ hai là trên thực tế, quư vị chẳng c̣n tạo nghiệp. Nói cách khác, không tạo nghiệp, quư vị sẽ không lănh quả báo, tự nhiên vượt thoát lục đạo, vượt thoát mười pháp giới. Chúng ta học tập Phật pháp cũng nhằm mục đích này. V́ sao phải học tập? Cuộc sống mê hoặc, điên đảo rất khổ. Nói thật ra, những nỗi khổ ấy rất oan uổng, v́ sao? Căn bản là những chuyện ấy chẳng tồn tại, đúng là giống như nằm mộng. Trong mộng cũng tạo nghiệp ư? Cũng hiển thị “thiện có thiện quả, ác có ác báo”. Chuyện ấy có thể chẳng giả! Chỉ cần quư vị có chấp trước, chuyện ấy bèn trở thành có thật, có những huyễn tướng ấy. Ngày nào giác ngộ, những hiện tượng ấy vốn giống như kinh Phật đă nói: “Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Quư vị thật sự hiểu rơ, thật sự giác ngộ, trong các hiện tượng ấy, bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, tâm quư vị đều bất động, trí huệ và từ bi thật sự sanh khởi từ nội tâm nhằm giúp cho mọi người giác ngộ. Vậy th́ cuộc sống hiện tiền của quư vị xác thực là chẳng hai, chẳng khác với cuộc sống của các vị Pháp Thân Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm. Đấy mới là cuộc sống hạnh phúc mỹ măn mà người thế gian mơ tưởng, quư vị đă đạt được. Sau đấy, mới chứng thực “ĺa khổ, được vui” như kinh Phật đă nói, v́ quư vị thật sự ĺa khổ, thật sự đạt được lạc. Quư vị đă chứng thực câu nói “ĺa khổ, được vui”. Câu nói ấy chẳng phải là lời hư giả!

      V́ vậy, đối với các bậc đại đức trong Tông Môn, tức là các vị đại đức trong Thiền Tông, hai câu nói ấy rất hay, điều quan trọng nhất là đối với vạn vật, quư vị phải vô tâm. Cái tâm ấy là tâm ǵ? Tâm chấp trước, tâm phân biệt, cũng có nghĩa là: Chúng ta đối với hết thảy vạn sự vạn vật chớ nên có phân biệt, chớ nên có chấp trước, v́ khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể. Chúng ta đă học Hoàn Nguyên Quán, những điều được giảng trong ấy c̣n rơ ràng hơn những ǵ khoa học hiện đại đă nói. Khoa học hiện đại phát hiện: Tất cả hết thảy hiện tượng, bất luận là hiện tượng vật chất hay hiện tượng tinh thần do đâu mà có? Từ trong Vô sanh ra Hữu. Phát hiện ấy cũng rất tuyệt diệu, nhưng v́ sao từ trong Vô sanh ra Hữu, họ chẳng nói rơ ràng! Nhưng Hoàn Nguyên Quán đă giảng rất rơ ràng “v́ sao từ trong Vô sanh ra Hữu?” V́ trong cái Vô ấy là tự tánh. Đối với tự tánh, nếu chẳng phải là người thật sự khai ngộ, quư vị sẽ chẳng có cách nào cảm nhận sự tồn tại của nó. V́ nó chẳng phải là hiện tượng vật chất, nên năm thức trước (nhăn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức) chẳng khởi tác dụng. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều chẳng thể tiếp xúc, v́ nó chẳng phải là vật chất. Nó cũng chẳng phải là hiện tượng tinh thần, nên thức thứ sáu là ư thức cũng chẳng cảm nhận được, thức thứ sáu lẫn thức thứ bảy đều chẳng thể cảm nhận. Nó thật sự tồn tại, lại c̣n là không lúc nào chẳng tồn tại, không đâu chẳng tồn tại. Nó là bản thể của vạn sự vạn vật, nói theo triết học sẽ là “bản thể của vạn vật”, c̣n nói theo Phật pháp sẽ là “tự tánh của vạn sự vạn vật”. Danh xưng tuy khác nhau, nhưng nói về cùng một chuyện. V́ lẽ đó, các nhà khoa học và triết gia không thể kiến tánh, nguyên nhân là do họ chẳng buông phân biệt, chấp trước xuống! Bất quá, các khoa học gia cận đại cũng nói là phải buông phân biệt, chấp trước xuống, nhưng họ chẳng nói “không khởi tâm, không động niệm”. Nếu thật sự có thể buông phân biệt, chấp trước xuống, những người ấy sẽ sanh vào đâu? Sanh trong bốn thánh pháp giới, họ là Phật hoặc Bồ Tát trong bốn thánh pháp giới, thuộc cảnh giới ấy. Cao lắm, đích xác là rất cao, nhưng phải biết: Họ chưa kiến tánh, nên chẳng thoát khỏi mười pháp giới. Họ chẳng biết t́nh h́nh cuộc sống trong cơi Thật Báo của chư Phật Như Lai. Họ có thể biết, có thể hiểu Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát trong bốn thánh pháp giới. Điều đó đă là rất khó có, rất chẳng dễ dàng! Do đó, buông xuống là trọng yếu, nay họ cũng dạy người khác buông xuống. Ở đây, buông xuống được gọi là “vô tâm”. Vô tâm đối với vạn vật, tức là quư vị chớ nên chấp trước, chớ nên phân biệt đối với vạn vật, nhất định phải biết chúng nó và chính ḿnh có cùng một Thể. Kinh Kim Cang nói “nhất hợp tướng”, ư nghĩa này rất sâu! V́ thế, hết thảy vạn vật vây quanh chúng ta chẳng có mảy may chướng ngại. Hư không chẳng trở ngại muôn h́nh tượng rạng ngời, muôn h́nh tượng rạng ngời cũng chẳng có mảy may chướng ngại hư không tồn tại. Đó gọi là “Thật Tướng của các pháp, chân tướng của nhân sinh và vũ trụ”.

      Quư vị chưa triệt để giác ngộ, nên chẳng đạt được cuộc sống mỹ măn. Từ kinh giáo Đại Thừa, chúng ta lănh hội chân tướng sự thật này. Trong Phật môn, điều ấy được gọi là “giải ngộ”, hoặc “tín giải”, nhưng mức độ hiểu cạn hay sâu khác nhau. [Hễ thấu hiểu “chỉ cần vô tâm với vạn vật, nào ngại vạn vật thường vây quanh”], đó là lư giải ở mức độ khá sâu. Sau khi đă hiểu, điều quan trọng nhất là chúng ta phải mong thực hiện, nghiêm túc thực hiện, đó gọi là Hành. Hành đă được kinh Hoa Nghiêm đă giảng rất thấu triệt qua năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử. Trong Khoa Phán, Thanh Lương đại sư đă đặt tiêu đề cho phần ấy là “lịch sự luyện tâm” (trải qua sự việc để luyện tâm), thật sự hành, phải thật sự hành! Trong phần trước, chúng ta đă đọc về chuyện trải qua sự việc để luyện tâm như sau: “Đương tướng ly tướng, bất tùy vật chuyển” (từ ngay nơi tướng mà ĺa tướng, chẳng bị vật chuyển), luyện điều này. Đó là ǵ? Thật sự tu hành. Lục căn ở trong cảnh giới sáu trần, đó là “đương tướng”. Các phàm phu cũng như vậy, đối trước tướng, họ chẳng ĺa tướng, mà giữ lấy tướng. “Giữ lấy tướng” là ǵ? Họ chấp trước tướng ấy, phân biệt tướng ấy, trật rồi! Đối với hiện tướng, họ muốn khống chế, muốn chiếm hữu, muốn chuyển biến, đều sai cả! Chư Phật, Bồ Tát ly tướng như thế nào? Đối với hiện tướng hiện tiền, về căn bản là chẳng quan tâm đến nó, mặc cho nó qua đi. Đối với hiện tướng, xác thực là chẳng dùng tới tâm, [tức là] chẳng dùng cái tâm chấp trước, chẳng dùng cái tâm phân biệt, mà cũng chẳng dùng cái tâm thay đổi. V́ sao? V́ tướng là giả, chẳng phải là thật, cớ ǵ tự ḿnh chuốc phiền? Đạo lư ở chỗ này. Quư vị sẽ chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển. Chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, cảnh giới bèn chuyển theo ư niệm của quư vị.

      Kế đó, sách viết: “Tấn nhi, vật tùy tâm chuyển” (Tiến hơn nữa th́ vật bị tâm chuyển), “vật” () là hoàn cảnh bên ngoài. V́ thế, cảnh chuyển theo tâm. Do cảnh chuyển theo tâm, “cố năng tùy ư tự tại” (nên có thể tùy ư tự tại), người ấy chẳng có chướng ngại. Hôm qua, chúng tôi nói đến đây, có nhắc đến thời cổ, vào đời Tống, dưới triều đại Tống Cao Tông có một vị là Tế Công, Ngài là một tấm gương tốt đẹp. Nói thật ra, cùng thời đại ấy, Bố Đại ḥa thượng cũng là một gương tốt đẹp. Tế Công là Bồ Tát hóa thân; Bố Đại ḥa thượng là Di Lặc Bồ Tát tái lai. Đọc các truyện kư trong Cao Tăng Truyện, chúng ta thấy truyện kư của hai vị này có phân lượng khá đáng kể. Đặc biệt là truyện Tế Công có phân lượng rất lớn. Quư vị đọc truyện kư, sẽ biết Ngài sống tự tại lắm, xác thực là phương tiện thiện xảo đă đạt tới tột bậc, giúp chúng sanh khai ngộ, giúp chúng sanh quay đầu, khuyên dạy chúng sanh đoạn ác tu thiện. Sách Hoàn Nguyên Quán đúng là đă giảng thấu triệt những đạo lư ấy. Loài người chúng ta do đâu mà có? Từ nhất niệm bất giác mà có. Khi nào có một niệm bất giác ấy? Nói lời thật cùng quư vị, sẽ là “đương hạ” (ngay trong lúc ấy), kinh nói là “vô thỉ”. Đừng hiểu lầm ư nghĩa của “vô thỉ”. [Người ta thường hiểu lầm “vô thỉ” là] đă rất lâu, chẳng t́m thấy lúc khởi đầu, nên gọi là “vô thỉ”, những kẻ mới học thường giải thích như vậy, đă giải thích sai mất rồi! Ư nghĩa thật sự của “vô thỉ” rất đơn giản, ư nghĩa nằm ngay trong mặt chữ: Nó chẳng có khởi đầu, nên gọi là vô thỉ. Thật sự chẳng có khởi đầu, ở ngay trong lúc này, ngay trong một niệm hiện tại. Một niệm ngay trong hiện tại dấy lên, niệm niệm tiếp nối, vấn đề xuất hiện ở ngay ở chỗ này! Nếu niệm niệm tiếp nối mà vẫn giữ được nhất niệm, sẽ là cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Nếu là hai niệm th́ hai niệm bèn có phân biệt, ba niệm bèn có chấp trước. Chẳng giữ được một niệm, hai niệm sẽ dấy lên, ba niệm bèn tiếp theo. Có hai niệm bèn có bốn thánh pháp giới. Có ba niệm bèn có lục đạo luân hồi. Ngay trong lúc ấy, ba niệm gần như đồng thời, tốc độ quá nhanh.

      V́ sao có hiện tượng phát sanh? Sách Hoàn Nguyên Quán bảo: Đó là bản năng (đức năng sẵn có) trong tự tánh. Trong tự tánh có trí huệ và đức tướng viên măn. Huệ Năng đại sư kiến tánh, đă tiết lộ những tin tức ấy: “Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ”, Ngài nói ra câu ấy! Khi chẳng có duyên, tức là nói khi chẳng có một niệm bất giác, thứ ǵ nó (tự tánh) cũng chẳng có, bởi tự tánh chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần. Khi có một niệm ấy phát sanh, nó có thể sanh ra vạn pháp. Vạn pháp xuất hiện đồng thời, chẳng có trước sau, quả thật giống như hiện thời chúng ta sử dụng máy chiếu phim: Những tấm phim được đặt vào máy chiếu, rọi lên màn bạc. Quư vị bật máy lên, toàn bộ h́nh ảnh bèn xuất hiện đồng thời, chẳng phải là có trước sau, chẳng có thứ tự. Hiện thời, cách nói này trong kinh Phật dần dần đă được những nhà Lượng Tử Lực Học thừa nhận. V́ thế, hiện thời khoa học phát triển ngày càng gần với kinh Phật. Đó là chuyện tốt! Đầu tháng này, cư sĩ Chung Mậu Sâm đă tham dự [hội nghị] nghe báo cáo của mấy nhà khoa học ở Tất Nê (Tuyết Lê, Sydney), có ghi tóm tắt những điểm tinh túy, trọng yếu đă nghe, và có viết một báo cáo. Ngày mốt, chúng ta có thể in ra, đặt ở quầy thông tin để kết duyên. Chư vị hăy đọc kỹ, sẽ thấy cách nói [của giới khoa học] hết sức gần với kinh này. Bất quá, họ chẳng biết có tự tánh; v́ thế, vẫn dùng chữ Thần. Họ nói có một vị “chân thần”, dùng chữ ấy để biểu thị, [họ cho rằng vạn sự trong vũ trụ] đều là ư nghĩ của chân thần, do chân thần xếp đặt. Thật ra, chẳng phải vậy, tự tánh vốn là như thế. Kinh Phật giảng rất có lư, nó vốn sẵn là như vậy, đó là sự biểu lộ của Tánh Đức. “Thần” như họ nói chính là “tự tánh” trong kinh Phật.

      Quư vị thấy từ một Thể, Thể ấy là nói tới tự tánh, “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Hiền Thủ quốc sư dùng danh xưng ấy, ư nghĩa rất hay, nói rất hoàn chỉnh. Tự tánh viên, “viên” () là viên măn, chẳng khiếm khuyết. “Thanh tịnh” (清淨) là vĩnh viễn chẳng có ô nhiễm. Nó chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, làm sao ô nhiễm cho được? Chẳng ô nhiễm được, đó là Tánh Thể. “Viên” là nói tới đức tướng trong ấy, nay chúng ta gọi [đức tướng] là năng lượng và thông tin. Phật pháp gọi những thông tin ấy là Ngũ Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chữ “minh” () là trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự tánh, đó là đă nói trọn hết. V́ thế, khi chẳng có duyên, nó (tự tánh) tồn tại, nhưng chẳng có dấu vết. Cho đến khi một niệm bất giác, một niệm bất giác là hiện tượng dao động cực kỳ vi tế, sự dao động ấy quả thật chẳng có nguyên nhân; từ sự dao động ấy, hiện tượng bèn xuất hiện, nên khởi ra hai tác dụng. Hai tác dụng ấy, một là chánh báo, hai là y báo. Chánh báo là chính ḿnh, y báo là vũ trụ. Dù dao động cực kỳ vi tế, hai thứ hiện tượng đều xuất hiện. Hai thứ hiện tượng ấy đều có ba đặc tánh, phải biết điều này: Hiện tượng chánh báo là chính ḿnh, y báo là hoàn cảnh sống của chúng ta. Nói cách khác, tất cả hết thảy hiện tượng, bất luận là tinh thần hay vật chất, đều có ba đặc tánh:

1) Thứ nhất là “châu biến pháp giới”, [nghĩa là] niệm niệm đều trọn khắp pháp giới. Ư niệm là ba tế tướng của A Lại Da, vật chất là tướng cảnh giới của A Lại Da, đều do dao động sanh ra. Do sự dao động ấy trọn khắp pháp giới, nên mới biết toàn thể vũ trụ và chính ḿnh là một Thể.

2) Thứ hai là “xuất sanh vô tận”. Xuất sanh vô tận là nói A Lại Da Thức có phân biệt, có chấp trước. Thức thứ sáu và thức thứ bảy khởi tác dụng, xuất sanh vô tận, giống như kính vạn hoa.

3) Hiện tượng thứ ba là “hàm dung Không Hữu” (bao hàm Không và Có), chúng ta thường nói là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”. Bất luận hiện tượng vật chất hay hiện tượng tinh thần, vốn đều là trọn khắp hư không, bao trùm pháp giới. V́ lẽ đó, tâm lượng chúng ta nhỏ nhặt sẽ là sai lầm; chẳng thể bao dung sẽ là sai lầm to lớn quá đỗi! Đó là ǵ? Cội nguồn của tất cả hết thảy phiền năo và tội nghiệt. Nếu chúng ta hỏi v́ sao có hiện tượng ấy? [Câu trả lời sẽ là] do quư vị chẳng biết vạn vật và chính ḿnh là một Thể, đó là mê, là Hoặc, tức mê hoặc! V́ thế, trong cảnh giới, bất luận vật chất hay tinh thần, quư vị bèn khởi tham, sân, si, mạn là do đạo lư này!

      Sau khi đă liễu giải, tuy lục căn đối trước cảnh giới sáu trần bên ngoài, người ta có bản lănh ấy, họ liễu giải, đă biết, nhưng chẳng dấy lên phân biệt, chấp trước. Đó là Bồ Tát ứng hóa trên thế gian, gọi là “du hư thần thông”, đến giúp đỡ hết thảy đại chúng. Chúng tôi tin tưởng: Trong Phật môn Trung Quốc, các Ngài hiện tướng để giúp đỡ người khác, th́ trong những quốc gia, những nơi chốn khác, các Ngài cũng sẽ thị hiện. Ở Trung Quốc, đất đai rộng lớn dường ấy, dân số đông đảo ngần ấy, tôi tin các Ngài cũng thường xuyên thị hiện, nhưng lũ phàm phu mắt thịt chúng ta chẳng nhận biết. Nói thật ra, các Ngài cũng chẳng cần chúng ta nhận biết. V́ sao? Người ta chẳng tiêm nhiễm danh lợi, cần [kẻ khác] nhận biết để làm ǵ? [Các Ngài thị hiện] đều nhằm giúp đỡ các chúng sanh hữu duyên. Ai có duyên với các Ngài, chúng ta không biết, nhưng các Ngài biết, v́ tâm các Ngài thanh tịnh. Chư vị phải biết: Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, các Ngài có vô lượng đức năng, trong Phật pháp gọi chuyện này là “thần thông tự tại”. Các Ngài chẳng có chướng ngại. Những chướng ngại trong quá khứ, hiện tại, vị lai, các Ngài đều hoàn toàn chẳng có. Chúng ta cảm thấy dường như một đời này, một kiếp sống này, đời đời kiếp kiếp, thời kiếp rất dài; đối với các Ngài th́ sao? Các Ngài thấy quư vị đang nằm mộng, liên tục mơ mấy giấc mộng. Các Ngài thấy rất rơ ràng, [quư vị] đồng thời liên tục nằm mơ khá nhiều giấc mộng. Khi quư vị có ư tưởng giác ngộ, ư niệm ấy rất trọng yếu. Ư niệm ấy là duyên phận; trong tâm thật sự mong giác ngộ, các Ngài sẽ thật sự giúp quư vị giác ngộ. Trong tâm chẳng mong giác ngộ, các Ngài chẳng thể giúp đỡ quư vị. V́ sao? Quư vị chẳng có ư niệm ấy, các Ngài giúp đỡ quư vị, quư vị sẽ chẳng thể tiếp nhận. Quư vị có ư niệm ấy, ư niệm ấy rất mạnh, cảm ứng vô cùng thù thắng, [nên các Ngài] thật sự có thể giúp đỡ quư vị.

      Đối với những chuyện thần kỳ của người trong thời cận đại, ngày hôm qua tôi đă thưa cùng chư vị truyện trưởng lăo Diệu Thiện chùa Kim Sơn. Ở Đài Loan, có hai người viết truyện truyền kỳ của Ngài. Một vị là pháp sư Chử Vân, vị kia là pháp sư Lạc Quan. Chúng tôi muốn t́m cuốn sách ấy, in ra hai ngàn bản để các đồng học đều được đọc. Vị này là người hiện đại, thật sự có chuyện ấy, chẳng giả tí nào! Pháp sư Lạc Quan kể với tôi: Sư có duyên với Ngài, từng ở chung với Ngài bốn tháng, hai lần, mỗi lần hai tháng. Hai lần ở chung một chỗ, có thời gian dài như thế. Đối với sự tích thần thông diệu ứng của Ngài, pháp sư Lạc Quan đích thân chứng kiến. Ngày hôm qua, tôi đă kể với quư vị khi Kim Sơn Hoạt Phật ăn cơm, người ta cúng dường, từng chén dâng lên Ngài, mỗi người đều dâng một chén, pháp sư Lạc Quan ở ngay bên cạnh, thấy Ngài ăn đến mười mấy chén, sắp tới hai mươi chén. Pháp sư Lạc Quan bảo mọi người: “Quư vị chớ nên làm như vậy, làm như vậy sẽ khiến cho pháp sư chịu không nổi”. Kim Sơn Hoạt Phật bèn bảo pháp sư Lạc Quan: “Bất tăng, bất giảm!” Pháp sư Lạc Quan nghe nói sững sờ, “bất tăng, bất giảm”, mới biết Ngài chẳng phải là người b́nh phàm. Người b́nh phàm làm sao có thể chịu đựng được! Thật vậy, về sự tích thần thông th́ quư vị nghĩ đến Ngài, nhớ đến Ngài, Ngài liền từ bên ngoài lắc lư bước vào. Chẳng phải là ngẫu nhiên! Rất nhiều lần đều là như vậy, đang tṛ chuyện, Ngài bèn tiến vào! V́ vậy, kinh Phật nói sáu thứ thần thông, Ngài thật sự thị hiện cho quư vị thấy!

Sáu thứ thần thông là bản năng của mỗi người chúng ta, chúng ta có đánh mất hay không? Chẳng đánh mất! Chỉ v́ chúng ta đă mê, nên chúng chẳng khởi tác dụng. Khi mê, ba thứ phiền năo chướng ngại chúng. Đương nhiên chướng ngại nghiêm trọng nhất là phân biệt, chấp trước. Chúng ta có tâm phân biệt, tâm chấp trước, nên sáu thứ thần thông chẳng khởi tác dụng. Nếu chúng ta có thể buông phân biệt, chấp trước xuống, sáu thứ thần thông bèn khôi phục, tối thiểu cũng phải có công phu giống như trưởng lăo Tế Công. Quư vị thấy ḥa thượng Diệu Thiện suốt đời ăn mọi thứ tùy duyên, cho ǵ ăn nấy. Ngài c̣n có một thói quen, thật đấy, chẳng giả đâu! Hễ Ngài thấy trên mặt đất có rác rưởi, những thứ ǵ vậy? Đồng nát, sắt vụn, Ngài liền lượm lấy nuốt luôn, người thường có thể làm được hay không? Đồng, sắt đă han rỉ, Ngài cũng chẳng cần lau chùi, cứ nhặt lên, ăn luôn. C̣n có người cúng tiền cho Ngài, tiền giấy! [Tiền] dơ bẩn khôn cùng, tay [bao nhiêu người] chạm vào, quư vị đưa cho Ngài, Ngài nuốt luôn! Ngài là người như vậy đó! Quư vị thấy cả đời Ngài chẳng tắm rửa, suốt đời là một bộ quần áo, cổ áo cáu ghét (hờm) bám đen thui, cổ áo đấy nhé! Nhưng quư vị ngửi, có mùi hoa sen; c̣n lạ lùng hơn nữa là ǵ? C̣n có thể chữa bệnh. Có những người nhức đầu, chẳng thoải mái, hễ ngửi liền khỏi, bệnh chẳng c̣n nữa. Ngài có năng lực ấy. V́ thế, thoạt đầu pháp sư Lạc Quan ở chung với Ngài, mấy hôm đầu thấy Ngài điên điên, khùng khùng, trong tâm hơi coi thường Ngài. Trong tâm có ư niệm ấy, Ngài bèn nói toạc ư niệm ấy ra. Từ đó về sau, pháp sư cũng không dám khởi tâm động niệm nữa. Ngài biết toàn bộ, mới biết Ngài chẳng phải là phàm nhân. Đó là ǵ? Đă đạt cảnh giới “cảnh chuyển theo tâm, tùy ư tự tại”.

      Chúng ta đọc phần kinh văn này rất hâm mộ. Phật, Bồ Tát bảo chúng ta: Rất đơn giản, chỉ cần quư vị buông phân biệt, chấp trước xuống, sẽ có thể giống như Ngài. V́ sao? Đó là bản năng của quư vị, quư vị vốn sẵn có, chẳng hiếm hoi, lạ lùng tí nào! Quư vị cũng vốn sẵn có trí huệ của Phật, Bồ Tát, chỉ cần buông những thứ ấy xuống là được! Công phu chân chánh chẳng phải là điều ǵ khác, chỉ là buông xuống! Chúng ta niệm kinh, niệm kinh sẽ có thể khai trí huệ ư? Đúng vậy! Biết niệm sẽ khai trí huệ; không biết niệm sẽ tăng trưởng phiền năo. Biết niệm là ǵ? Khi niệm kinh, buông phân biệt, chấp trước xuống, đó là “biết niệm”. Khi niệm kinh, hễ c̣n có phân biệt, chấp trước th́ là chẳng biết niệm. Niệm kiểu đó, không chỉ chẳng thể đoạn phiền năo, mà c̣n sanh ra phiền năo. Phiền năo ǵ vậy? Sở Tri Chướng. Quư vị đă có Phiền Năo Chướng, nay lại có thêm Sở Tri Chướng, sai mất rồi! Do đó, Mă Minh Bồ Tát dạy chúng ta ba nguyên tắc trong niệm kinh, chúng ta phải ghi nhớ. Niệm kinh, thính giáo (tức là nghe giảng), đều phải tuân thủ các nguyên tắc ấy: Nghe giảng đừng chấp trước tướng ngôn thuyết, đừng chấp trước tướng danh tự, đừng chấp trước tướng tâm duyên. Trong tâm quư vị chớ nên có phân biệt, chớ nên chấp trước, đừng suy nghĩ, hăy nhất tâm nghe kinh, quên sạch những ư niệm khác, đều buông xuống, đó gọi là “biết nghe”. Nghe kinh như vậy có thể đắc Định, có thể khai ngộ. Kẻ chẳng biết nghe chính là lũ phàm phu chúng ta mong nghe giảng, nghe người ta giảng nói như thế nào, bèn nhớ kỹ từng câu trong ḷng. Hễ thuận với ư ḿnh, bèn sanh tâm hoan hỷ; hễ trái với ư nghĩ của ḿnh, bèn phê b́nh. Đó gọi là “sanh phiền năo”. Quư vị nghe giảng hoặc đọc xong, tâm sanh mừng, giận, buồn, vui, sanh khởi những thứ ấy. Người thật sự biết nghe, sẽ đạt được ǵ? Đạt được thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, đạt được những điều ấy, đó là biết nghe! Nói cách khác, nghe kinh ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng tâm duyên, ĺa tướng danh tự, đó là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Khi đọc kinh, chớ nên chấp trước tướng văn tự! Văn tự là phù hiệu ngôn ngữ. [Mă Minh Bồ Tát] dạy chúng ta đừng chấp trước tướng ngôn thuyết. Chúng ta cũng đừng nên chấp tướng văn tự, mà cũng đừng chấp trước tướng danh tự, cũng chớ nên phân biệt, chẳng cần suy nghĩ câu này có ư nghĩa ǵ, câu kia có ư nghĩa ǵ, chẳng cần phải suy nghĩ! Đọc kinh như vậy, sẽ có thể đắc Thiền Định, sẽ có thể khai ngộ. V́ thế, biết và không biết có quan hệ rất lớn. Thứ ǵ quư vị cũng đều hiểu, hăy nắm lấy nguyên lư và nguyên tắc của chúng.

V́ sao ta nghe kinh? V́ sao ta đọc kinh? Nhằm khai ngộ, nhằm tu tâm thanh tịnh. Chúng ta cùng nhau cộng tu hai tiếng đồng hồ, cùng nhau chia sẻ, có phải là trong hai tiếng đồng hồ ấy tâm địa thanh tịnh, chẳng có tạp niệm xen vào đó, nhất tâm nơi kinh giáo hay không? Nếu như thế th́ đúng. Nghe kinh giáo mà chẳng chấp trước kinh giáo th́ đúng, hoàn toàn đúng. Đến khi thuần thục, xác thực là cảnh chuyển theo tâm, công phu của quư vị sâu xa. Công phu sâu là ǵ? Ư niệm thật sự tương ứng với tự tánh, phiền năo, tập khí dần dần nhạt mỏng, dần dần tiếp cận trí huệ và đức tướng trong tự tánh, tự tánh khởi tác dụng. Nay chúng ta chẳng khởi tác dụng, v́ sao? Chúng ta rất gần với phiền năo tập khí, nên Tánh Đức chẳng khởi tác dụng. Chuyện này không quan trọng cho lắm, thời gian chúng ta nghe kinh quá ít, công phu chẳng đủ! V́ thế, thật sự có hoàn cảnh tu học, mỗi ngày có thể nghe kinh mười tiếng đồng hồ, tôi tin tưởng là ba tháng hay nửa năm, quư vị sẽ biến đổi. Phương pháp ấy hết sức hữu hiệu đối với người căn tánh trung hạ, nay chúng ta gọi họ là “phần tử trí thức”. Phần tử trí thức tu học [phương pháp ấy] đặc biệt có hiệu quả. Quư vị bảo phần tử trí thức tham Thiền không được, v́ họ chẳng thể định; bảo họ niệm Phật cũng không được, họ chẳng niệm được, vọng tưởng, tạp niệm quá nhiều. V́ thế, người b́nh phàm có hai căn bệnh lớn, một là hôn trầm, hai là lao chao.

Hôn trầm là ǵ? Tinh thần chẳng thể phấn chấn được, ngồi lâu bèn ngủ gà ngủ gật, ngủ mất tiêu! Không chỉ ngồi mới ngủ, mà đứng cũng ngủ. Thuở chúng tôi c̣n trẻ, xuất gia, công khóa sáng tối lên chánh điện tụng kinh, mọi người xếp hàng đứng vào chỗ, liền nghe có người ngáy, đứng ngay ở đó mà ngáy, hôn trầm mà! Lăo ḥa thượng dùng hương bản đập người ấy, người ấy cứ đứng đó mà ngủ! C̣n có người công phu giỏi hơn nữa! Vừa đi vừa ngủ, đi nhiễu Phật, khi đi nhiễu Phật họ ngáy o o, rất lợi hại! Do đó, đấy là tật xấu!

Một căn bệnh khác là ǵ? Tâm chẳng thể định! Chẳng ngủ gục, tinh thần tốt lắm, vọng niệm rất nhiều, đó gọi là “trạo cử” (掉舉: điệu cử, lao chao). Phật môn nói hai thứ tập khí phiền năo ấy rất nặng, đều khiến cho tâm chẳng định được. Đối với kẻ chẳng thể định tâm, đức Phật dùng phương pháp tu Định để giúp đỡ họ. Đối với kẻ chẳng thể phấn chấn tinh thần, hôn trầm, có một cách là bảo kẻ ấy nhiễu Phật, kinh hành. Khi kinh hành, kẻ ấy vẫn ngủ gà ngủ gật th́ c̣n có một cách nữa là bảo kẻ ấy lạy Phật. V́ thế, trong Phật môn, đối với hạng người đó, lăo ḥa thượng quy định công khóa của họ là mỗi ngày ba ngàn lạy. Ba ngàn lạy th́ gần như là bảy tám tiếng đồng hồ. Đúng vậy! Làm như thế có thể chữa khỏi tật xấu của kẻ ấy.

      “Như Tịnh Ảnh Sớ vân: Do thành thắng thông, ư nhất thiết vật biến hóa tùy ư, cố năng lợi vật, danh vi tự tại” (Như Tịnh Ảnh Sớ nói: “Do thành tựu thần thông thù thắng, nên trong hết thảy các vật có thể biến hóa tùy ư. V́ thế, có thể lợi vật, gọi là tự tại”). Trong bản chú giải, ngài Huệ Viễn đă nói như vậy. “Do thành thắng thông”, [nghĩa là] các Ngài (các vị Bồ Tát dự hội) đă thành tựu thần thông thù thắng. “Thắng thông” (勝通) là nói tới thành tựu của Bồ Tát, cao hơn A La Hán, trong hết thảy các vật có thể biến hóa tùy ư, thật sự có thể làm giống như kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Thuận theo tâm chúng sanh, ứng với khả năng tiếp nhận của họ”, tùy vật (隨物: tùy thuận chúng sanh) mà biến hóa, trọn chẳng phải do chính ḿnh khởi tâm động niệm, mà là tự nhiên, thuận theo ư niệm của chúng sanh mà biến hóa. Trong kinh Tiểu Thừa, trong tám tướng thành đạo có tướng hàng ma, trong kinh Đại Thừa chẳng có. Kinh Đại Thừa dạy: V́ Ngài chẳng phân biệt, nên chẳng có Phật, mà cũng chẳng có ma. Phật và ma chẳng có sai biệt, hoàn toàn do chính ḿnh dụng tâm. Tâm của chính ḿnh thanh tịnh, thiện lương, ma cũng là Phật. Tâm của chính ḿnh chẳng thanh tịnh, bất thiện, Phật cũng là ma. Nói thật ra, hiện tượng bên ngoài chẳng có đúng, sai, thiện, ác, mà cũng chẳng có chân, vọng, tà, chánh. Đúng, sai, thiện, ác, chân, vọng, tà, chánh đều do tâm của chính chúng ta, tâm chúng ta phản ứng, điểm này rất quan trọng! Nếu chúng ta muốn thấy Phật, quư vị thật sự tu tâm thanh tịnh, tu một bầu thiện tâm, thiện tâm là ǵ? Trong mỗi niệm, tâm luôn v́ hết thảy chúng sanh khổ nạn th́ là thiện tâm. Hễ có một niệm v́ chính ḿnh, tâm ấy bất thiện, trong một niệm ấy, hễ có nhân tố của vô lượng phiền năo xen lẫn, sẽ là ô nhiễm, bất thiện. V́ thế, điều quan trọng đối với chúng ta là phải sửa đổi ư niệm.

      Trước kia, chẳng dễ ǵ sửa đổi ư niệm; nay đă dần dần hiểu, hiểu điều ǵ? Vạn sự vạn vật trong khắp pháp giới hư không giới do tâm tánh của chính ḿnh biến hiện, có cùng một Thể với chính ḿnh, nên chẳng c̣n chấp trước thân này là ta. Ta là ǵ? Khắp pháp giới hư không giới là ta. Chẳng phải là coi người khác giống như chính ḿnh, mà là người khác và ta thật sự là một Thể. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật giảng, tự tánh của chúng ta giống như biển cả, nên gọi là “tánh hải”, dùng tỷ dụ ấy. Quư vị, tôi, người khác, do đâu mà có? Là bọt nước trồi lên trong biển cả! Nếu quư vị giác ngộ, bọt nước dẫu nhiều đến đâu đi nữa, vẫn là một biển cả, là một với chính ḿnh. Đă ngộ, biển cả là chính ḿnh; hễ mê, ngỡ bọt nước là chính ḿnh, quư vị, tôi và người khác biến thành đối lập, đó là mê. Trong kinh, đức Phật đă giảng rất rơ ràng, chúng ta cũng niệm rất thuần thục, nhưng chẳng liễu giải ư nghĩa thật sự. Chẳng hạn như kinh dạy: “Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”, một thân đấy nhé! Thân ǵ vậy? Thân ấy là chân thân, tức Pháp Thân! V́ thế, Giáo Hạ mới thường nói: “Phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân”. Vô minh đă phá, liền chứng đắc Pháp Thân. Vô minh là ǵ? Khởi tâm động niệm. Vốn chẳng khởi tâm, không động niệm, Pháp Thân liền hiện tiền. Pháp Thân là ǵ? Khắp pháp giới hư không giới là chính ḿnh, đó là Pháp Thân. Pháp Thân bất sanh, bất diệt, Pháp Thân chẳng đến, chẳng đi. Những câu ấy trong kinh điển rất khó hiểu, v́ sao là bất sanh, bất diệt? V́ sao chẳng đến, chẳng đi? Trung Quán Luận nói tám chữ Bất[6]. Đọc Hoàn Nguyên Quán rồi mới coi như hiểu rơ. V́ thế, [hiểu rơ] vạn pháp trong vũ trụ và chính ḿnh là một Thể, tâm từ bi bèn sanh khởi. Trí huệ hiện tiền, tâm từ bi sanh khởi. Thật sự yêu thương hết thảy chúng sanh, trông thấy chúng sanh trong lục đạo, sanh khởi tâm thương xót: “Ta rất may mắn, ở trong lục đạo mà giác ngộ. Suốt một đời này, nhất tâm nhất ư không chỉ mong thoát khỏi lục đạo, mà c̣n muốn thoát khỏi mười pháp giới”. Phương pháp có thể nắm chắc nhất, đáng tin cậy nhất là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Sanh vào Tịnh Độ, liền vượt thoát mười pháp giới, sanh Tịnh Độ bèn thành Phật, phải biết điều này. Do đó, trong vô lượng pháp môn, đây là pháp môn thù thắng khôn sánh. Hơn nữa, chỉ cần phát tâm học, chẳng có ai không thành tựu!

      Chỉ có đạt đến thành tựu ấy th́ mới có thể giống như Bồ Tát giúp đỡ chúng sanh trong mười pháp giới thuộc mười phương các cơi Phật trọn khắp pháp giới hư không giới. Chính chúng ta chưa vượt thoát, làm sao có thể giúp họ cho được? Chính ḿnh vượt thoát, cách duy nhất để nắm chắc, để có thể thành tựu trong một đời, Phật, Bồ Tát đều sẽ giúp đỡ, chiếu cố chúng ta, là phải nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật. Chớ nên so đo phẩm vị văng sanh, không cần thiết! Ngẫu Ích đại sư đă v́ chúng ta thị hiện, lăo nhân gia nói: “Chỉ cần hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, tôi đă thỏa ư rồi”. Ngẫu Ích đại sư chẳng phải là phàm nhân, bộ Di Đà Kinh Yếu Giải của Ngài tuyệt hay! Theo lời Bạt ở cuối sách ấy, Ngài viết xong bộ Yếu Giải trong chín ngày! Pháp sư Ấn Quang đă tán thán cuốn sách nhỏ ấy tột bậc. Trong Văn Sao, khi nhắc tới Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngài đă viết: “Dẫu cổ Phật tái lai trong thế gian này để viết chú giải kinh Di Đà, cũng chẳng thể hay hơn bản ấy được!” Quư vị thấy Ấn Quang đại sư tán thán như vậy, lời tán thán ấy tuyệt diệu thay! [Tổ đă] coi Ngẫu Ích đại sư như chư Phật Như Lai. Nói cách khác, bản chú giải Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư giống như A Di Đà Phật tự ḿnh trước tác. Rất nhiều người biết Ấn Quang đại sư là Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai. Đại Thế Chí là Đẳng Giác Bồ Tát, Ngài tán thán Ngẫu Ích đại sư như vậy, thân phận của Ngẫu Ích đại sư đă bị bộc lộ. Từ câu nói ấy của Ấn Quang đại sư, chúng ta có thể liên tưởng nếu Ngẫu Ích đại sư chẳng phải là Phật Di Đà tái lai, chắc chắn cũng là Quán Thế Âm Bồ Tát tái lai.

      Chúng ta học Tịnh Độ, nếu ngại kinh Vô Lượng Thọ phân lượng c̣n quá nhiều, rất khó tiếp nhận, hăy học Yếu Giải, được lắm! Quá hay! Tám ngàn năm trong thời Mạt Pháp sau này, vô lượng chúng sanh hữu duyên đắc độ, tôi tin là do nhờ vào hai bản kinh sách, một là Di Đà Yếu Giải, hai là bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ của Hạ lăo cư sĩ. Thật sự có năng lực để chuyên tu, chúng xuất gia trong đạo tràng hăy nên lấy Yếu Giải làm khóa sáng, lấy kinh Vô Lượng Thọ làm khóa tối, hoặc lấy kinh Vô Lượng Thọ làm khóa sáng, Yếu Giải làm khóa tối, đều được, khế cơ mà! Trong hiện thời, khóa bổn trong các chùa miếu do cổ nhân ấn định, thời ấy th́ được, chứ trong thời đại này sẽ chẳng khế cơ. V́ thế, khi Tịnh Tông Học Hội thành lập, các đồng học muốn tôi biên soạn một bản khóa tụng. Lúc đó, tôi ở Mỹ, liền chọn bản này, tức là bản kinh Vô Lượng Thọ: Khóa sáng niệm phẩm thứ sáu gồm bốn mươi tám nguyện, [đó là] kinh văn để tụng niệm trong khóa sáng. Khóa tối cũng dùng bản này, từ phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy. Đoạn kinh văn ấy khá dài, đó là ǵ? Giới luật, Ngũ Giới, Thập Thiện, dạy chúng ta đoạn ác, tu thiện, thật sự sám hối, thật sự được thọ dụng. Khóa sáng gồm bốn mươi tám nguyện nhằm nhắc nhở chúng ta; khóa tối là một đoạn lớn kinh văn sám hối, sám trừ nghiệp chướng. Kinh văn như vậy chẳng thể coi là rất dài, học dễ dàng. Bản này cũng được lưu thông rất rộng, rất thích hợp cho các đồng học hiện thời tu học.

      Tiếp đó, sách viết: “Đại sĩ thần thông tự tại, ư nhất thiết vạn vật tâm vô câu thúc, tùy duyên biến hóa, nhiêu ích chúng sanh” (Đại sĩ thần thông tự tại, trong hết thảy vạn vật, tâm chẳng bị câu thúc, tùy duyên biến hóa lợi ích chúng sanh). Tiếp đó là nêu một tỷ dụ: “Nạp Tu Di ư giới tử, chuyển tứ hải nhập mao đoan, tùy ư lợi tha, cố vân tự tại” (Bỏ núi Tu Di vào trong hạt cải, chuyển bốn biển vào trong một đầu lông, tùy ư lợi người, nên bảo là “tự tại”). Nói về sự tự tại, tự tại đến mức độ nào? Nêu lên tỷ dụ ấy. “Tu Di” là núi Tu Di, tức là quả núi cao nhất, to nhất trên thế gian này. Bỏ quả núi ấy vào đâu? Đặt trong hạt cải, hạt cải rất nhỏ, giống như hạt mè. Bỏ núi Tu Di vào trong hạt cải, hạt cải chẳng ph́nh to, núi Tu Di chẳng rút nhỏ, mà có thể bỏ vào được! Bốn đại hải c̣n lớn hơn nữa. “Tứ đại hải” là các đại dương trên địa cầu. Đem các đại dương bỏ vào trong đầu sợi lông. [“Mao đoan” (毛端)] là sợi lông, bỏ [bốn đại hải] trong một sợi lông! Nói lên điều ǵ? Lớn và nhỏ chẳng hai, thật vậy, chẳng giả! Nay chúng ta không buông xuống được, chẳng có cách nào buông xuống được, do nguyên nhân nào? Chúng ta chấp trước có cái lớn, cái nhỏ. Chỉ cần quư vị có chấp trước, nó liền khởi tác dụng: Lớn có thể dung nạp nhỏ, nhưng nhỏ chẳng thể dung nạp lớn. Nếu chúng ta buông chấp trước xuống, sẽ làm được chuyện ấy.

      Công phu tu hành chẳng có ǵ khác, buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà thôi. Đó là tu hành nghiêm túc. Người thượng thượng căn buông ǵ xuống? Khởi tâm động niệm, người ấy buông khởi tâm động niệm xuống, đương nhiên phân biệt, chấp trước đều chẳng c̣n. Chúng ta biết phân biệt sanh từ khởi tâm động niệm, chấp trước sanh từ phân biệt. Không khởi tâm, không động niệm, đương nhiên chẳng có phân biệt, chấp trước, bậc thượng thượng căn dùng công phu ấy. Bất luận trong cảnh giới nào, họ đều có thể tiếp xúc, nào ngại vạn vật thường vây quanh. Họ đều tiếp xúc, nhưng chẳng khởi tâm, không động niệm, đó là công phu của Pháp Thân Bồ Tát. Khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước, đó là công phu của Bồ Tát. Khởi tâm động niệm, phân biệt, chẳng có chấp trước, đó là công phu của A La Hán và Bích Chi Phật. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước toàn bộ đều có, đó là lục đạo phàm phu. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn nhằm tu ǵ? Tông Môn nói: Tu không động tâm. Tu vô tâm trong vạn vật. Tu điều ấy, tu vô tâm trong vạn vật. Tu ngay trong vạn vật, chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, đó là tu hành thật sự. Người tu hành tâm vĩnh viễn thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, đó là Tự Thọ Dụng, đối với người, đối với vật đại từ đại bi. Đại từ đại bi là ǵ? Người ấy dùng cái tâm b́nh đẳng, đối với hết thảy chúng sanh, chẳng có ḷng yêu thương thiên vị, ưa chuộng riêng một ai, chẳng có! Hoàn toàn là b́nh đẳng, cùng với chính ḿnh là một Thể, đó là chân tu.

      Trong thời đại hiện tiền, tai nạn hiện tiền cũng có lợi. Chúng tôi cũng thường nói: “Đại tai nạn hiện tiền, khơi gợi nhiều người giác ngộ”. Chúng ta phải từ mê hoặc, điên đảo quay lại, quyết định chớ nên làm chuyện tự tư tự lợi, phải đối đăi b́nh đẳng, phải cư xử ḥa thuận, [phải có thái độ coi hết thảy chúng sanh là] những người đồng hội đồng thuyền với ta, hăy nên giúp đỡ lẫn nhau. Hiện thời, trên khắp địa cầu xuất hiện rắc rối, địa cầu giống như một chiếc thuyền trong vũ trụ, chúng ta ngồi cùng thuyền phải giúp đỡ nhau, chớ nên c̣n phân biệt anh, tôi, người khác. Vạn vật là một Thể, vạn vật là một nhà, phải thành tâm thành ư hỗ trợ hợp tác. Chúng ta sửa đổi ư niệm như thế, chư vị phải biết, tai nạn sẽ hóa giải. V́ sao? Vật chuyển theo tâm, hoàn cảnh liền chuyển theo tâm. Hoàn cảnh hiện thời rối ren đến mức độ này là v́ sao? Mỗi cá nhân tự tư tự lợi, chỉ biết có chính ḿnh, chẳng nghĩ đến người khác, thậm chí khởi tâm động niệm đều là tổn người, lợi ḿnh, nên mới biến địa cầu thành nông nỗi này! Các khoa học gia cho biết: Vật chất trong vũ trụ là giả, chỉ có ư niệm. Ư niệm là ǵ? Ư niệm là thức. Nhà Phật nói “tâm hiện, thức biến”, tự tánh có thể sanh, có thể hiện, nhưng nó chẳng biến đổi, c̣n thức sẽ biến. Thức là ǵ? Ư niệm, chuyển biến theo ư niệm. Ư niệm là chúng sanh trong mười pháp giới, chúng sanh trong lục đạo. Tâm địa của chúng sanh trong bốn thánh pháp giới đều thanh tịnh, v́ họ chẳng có phân biệt, chấp trước. A La Hán và Bích Chi Phật chẳng có chấp trước, cao hơn nữa là Bồ Tát và Phật chẳng có phân biệt. V́ thế, các Ngài thanh tịnh; đó chính là Tịnh Độ; Tịnh Độ của Thích Ca Mâu Ni Phật. Lục đạo luân hồi là uế độ; chúng sanh luân hồi trong lục đạo có phân biệt, có chấp trước, lại c̣n [phân biệt, chấp trước] vô cùng nghiêm trọng. Hiện thời, toàn thể phân biệt, chấp trước đều là sai lầm, đều bất thiện, vi phạm toàn bộ mười điều lành do đức Phật đă dạy.

      Do đó, thế giới hiện thời là thế giới Thập Ác, giết, trộm, dâm, dối, ác khẩu, nói đôi chiều, nói thêu dệt, tham, sân, si, toàn là những thứ ấy, toàn bộ! Ngược lại, những người thật sự tu Thập Thiện Nghiệp, chẳng giết, chẳng trộm, chẳng dâm, chẳng nói dối, chẳng nói đôi chiều, chẳng nói thêu dệt, chẳng ác khẩu, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, quá ư là ít! Đúng là trong một vạn người, khó t́m được một kẻ! Sở dĩ thế giới biến thành như vậy, sở dĩ xă hội biến thành như vậy, chúng ta phải biết: Chẳng do nguyên nhân nào khác, mà là do ư niệm của cư dân trên địa cầu, do ư niệm của chúng sanh trên địa cầu. Chúng ta có thiện niệm, địa cầu ngay lập tức khôi phục b́nh thường. Nếu vẫn chẳng biết quay đầu, tai nạn c̣n nghiêm trọng hơn! Tai nạn trong hiện thời vừa mới khởi đầu, chẳng phải đến mức này là xong. Hiện thời mới vừa bắt đầu, sau này sẽ c̣n nhiều rắc rối to lớn! V́ thế, chúng tôi hy vọng các đồng học học Phật, bất luận là học từ [truyền h́nh] vệ tinh, hay học từ Internet, chúng ta cùng học một bộ kinh Vô Lượng Thọ, cùng niệm câu A Di Đà Phật, hăy noi theo lư luận trong kinh giáo, biến lư luận thành tư tưởng của chúng ta, biến giáo huấn trong kinh điển thành hành vi của chúng ta. Tôi tin tưởng các đồng học chúng ta số lượng chẳng ít, các đồng học Tịnh Tông trên toàn cầu đều có thể làm như vậy, sẽ có cống hiến rất lớn đối với thế giới, văn hồi kiếp vận. Các nhà khoa học nói chỉ cần có tám ngàn người là đủ, tôi tin tưởng chúng ta chắc chắn không chỉ có tám ngàn người, mà c̣n vượt xa số đó. Chúng ta phải có tín tâm, phải có đại nguyện, nhất định thực hiện từ chính ḿnh, toàn tâm toàn lực thực hiện.

      Điều quan trọng nhất là biết chân tướng sự thật, thân chẳng phải là ta, linh tánh là ta. Thân có sanh diệt, linh tánh chẳng diệt. Biết linh tánh chẳng diệt, quư vị sẽ coi trọng định luật nhân quả. Chúng ta chưa vượt thoát mười pháp giới, chắc chắn không thoát khỏi định luật nhân quả. Trong mười pháp giới, thiện nhân, thiện quả, ác nhân, ác báo. Chúng ta quyết định chẳng kết ác duyên, quyết định chẳng tạo nhân ác. Chúng ta chỉ có một mục tiêu, một phương hướng, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di Đà Phật. Đă thành tựu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức là như kinh đă dạy, chúng ta phải báo ân cha mẹ. Cha mẹ sanh ra thân thể này, chúng ta mới có duyên tiếp xúc Phật pháp. Phải báo ân Phật, Bồ Tát; nếu Phật, Bồ Tát chẳng giáo huấn, đời này chúng ta làm sao có thể thành tựu cho được? Dùng phương pháp ǵ để báo ân? Chính ḿnh thành Phật, sau đấy phỏng theo chư Phật Như Lai, Pháp Thân đại sĩ cũng trụ trong khắp pháp giới hư không giới, giống hệt như kinh đă dạy, dùng vô lượng trí huệ, vô lượng thần thông, đạo lực để ứng hóa trong mười pháp giới, giúp đỡ hết thảy chúng sanh c̣n chưa giác ngộ. Đó là báo ân chân chánh, báo ân cha mẹ đời đời kiếp kiếp, báo ân Phật Như Lai và ân thầy.

      Chúng ta xem hai câu cuối cùng: “Vị chư thứ loại, tác bất thỉnh chi hữu” (V́ muôn loài, làm bạn chẳng thỉnh). Quư vị thấy phía trước toàn là nói về tự độ, câu này là độ tha. Sau khi tự độ, nhất định phải độ tha. Hy vọng Pháp Thân của chúng ta vĩnh viễn khỏe mạnh, hễ c̣n có mê, bất giác, c̣n đọa trong lục đạo, tức là Pháp Thân của chúng ta c̣n có chút bệnh tật, vẫn chưa hoàn toàn khôi phục, chúng ta phải chỉnh sửa chút bệnh vặt ấy. Tiếp đó, [cụ Hoàng] giảng: “Thứ giả, phàm thứ” (Thứ () là b́nh phàm), chúng ta thường nói là phàm phu, chỉ lục đạo chúng sanh. “Loại giả, phẩm loại” (loại () là phẩm loại), tức các loại. “Hựu thứ giả, chúng dă, thứ loại chỉ chúng sanh” (Thứ c̣n có nghĩa là Chúng, chữ “thứ loại” chỉ chúng sanh), đặc biệt là chúng sanh trong lục đạo. “Bất thỉnh chi hữu giả, Hội Sớ vân: Chúng sanh bối giác” (Sách Hội Sớ giảng về “bạn chẳng thỉnh” như sau: “Chúng sanh trái nghịch giác”), “giác” là giác ngộ, cũng chính là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” như trong tựa đề kinh đă nói. Vốn là giác, giác là Phật. V́ lẽ đó, trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật thường dạy: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật, vốn đă thành Phật” đều là nói theo giác. Trong tựa đề kinh này, thanh tịnh là A La Hán, là Bích Chi Phật, các Ngài đắc thanh tịnh tâm; b́nh đẳng là Bồ Tát; giác là Phật. Nay lục đạo phàm phu chúng ta trái nghịch toàn bộ, không chỉ là bất giác, mà c̣n là bất b́nh đẳng. Bất b́nh đẳng là ǵ? Có phân biệt. Lại c̣n chẳng thanh tịnh; chẳng thanh tịnh là có chấp trước. Có chấp trước sẽ không thanh tịnh, có phân biệt sẽ không b́nh đẳng, bất giác là mê. V́ vậy, chúng sanh trái nghịch giác, vi phạm thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. “Trầm mê phiêu lưu” (ch́m đắm, mê muội, phiêu giạt), mấy câu này h́nh dung sự trầm mê trong lục đạo, mê rất sâu, trôi giạt trong lục đạo, h́nh dung họ phải theo nghiệp chịu báo mà luân hồi trong lục đạo. Ư nghĩa được bao hàm trong câu này vô cùng sâu.

      Con người hiện thời chẳng biết nhân quả đáng sợ, dám tạo tội nghiệp. Xă hội hiện thời loạn như thế, nguyên nhân chủ yếu nhất là sát sanh. Phàm là các chúng sanh có sanh mạng, chúng ta thường gọi là “động vật”, quư vị giết nó, nó có oán hận hay không? Nó chẳng có khả năng chống cự, bị quư vị giết, bị quư vị ăn, nó có cam tâm t́nh nguyện hay không? Nếu chẳng cam tâm, không t́nh nguyện, nó có báo thù hay không? Nhất là giết người, hiện thời mỗi ngày giết người bao nhiêu? Ví dụ rơ ràng nhất là phá thai. Phá thai là sát nhân, chẳng phải là giết ai khác, mà chính là giết con cái của chính ḿnh. Trên thế giới mỗi ngày có bao nhiêu [trường hợp phá thai]? Đáng sợ quá! Mỗi năm giết bao nhiêu? Nó có duyên với quư vị, đến làm con cái của quư vị. Nếu là báo ân, quư vị giết nó đi, sẽ biến thành cừu nhân. Nó đến báo oán, quư vị giết nó, cừu hận càng sâu! Oán khí ấy kinh khủng lắm! Nó đến đ̣i nợ, hoặc trả nợ, nợ nần c̣n đang tranh chấp, nay biến thành sát nghiệp, lại biến thành nợ mạng, đáng sợ quá! Người hiểu nhân quả quyết định chẳng dám làm chuyện này, rất đáng sợ! Hiện thời, không khí ô nhiễm, mỗi ngày quư vị thấy bầu trời xám mù mịt. Đó là ǵ vậy? Oán khí đấy, chẳng phải là thứ ǵ khác! Những chuyện con người đang làm hiện thời c̣n thua cả súc sanh! Súc sanh như sư tử, cọp chẳng ăn con cái của chính ḿnh, sẽ không tổn hại chúng! Con người hiện thời ngay đến súc sanh mà vẫn chẳng bằng, đáng sợ quá! Oan oan tương báo chẳng dứt, chẳng xong, phiền phức to lắm! Ăn thịt hết thảy các động vật lại chẳng cần phải nói nữa. Chẳng có động vật nào cam tâm t́nh nguyện đem thân thể của chính ḿnh dâng lên cúng dường quư vị. Quư vị giết nó, muốn ăn thịt nó, nó biết, t́m mọi cách chạy trối chết, nhưng trốn chẳng thoát! Bị quư vị giết, bị quư vị ăn. Trong hết thảy ác nghiệp, sát sanh xếp hàng đầu. Trong Ngũ Giới, điều đầu tiên là chẳng sát sanh. Trong Thập Thiện, điều đầu tiên cũng là không sát sanh. V́ thế, trong giới luật Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, điều được khẳng định đầu tiên là không sát sanh. Đó là chư Phật Như Lai đại từ đại bi, thời thời khắc khắc nhắc nhở chúng ta, quyết định chớ nên tạo tội nghiệp ấy. Muỗi, trùng, kiến đều có sanh mạng, chớ nghĩ chúng là nhỏ nhoi, mỗi con cũng là một mạng. Kẻ thường sát sanh, điều thứ nhất, chắc chắn là thân thể chẳng tốt, nhiều bệnh, lắm tai ương, nhiều bệnh tật, đời sau là quả báo trong tam đồ, làm sao có thể trốn thoát cho được! Trong một đời này, bất cứ lúc nào đều có oán thân trái chủ theo bên thân quư vị, quư vị có dễ sống hay chăng? Những lời này chẳng phải là nói láo nghe chơi, mà là chân tướng sự thật.

      V́ lẽ đó, lăo pháp sư Ấn Quang suốt đời đề xướng nhân quả là có lư. Để cứu vớt xă hội hiện thời, luân lư và đạo đức hữu dụng hay không? Nói thật ra, chẳng hữu dụng! Thứ ǵ hữu dụng? Giáo dục nhân quả hữu dụng, dùng giáo dục luân lư đạo đức để phụ trợ giáo dục nhân quả. Chúng ta nhất định phải biết: Người được giáo dục luân lư, đạo đức, xấu hổ v́ làm ác. Cổ nhân nói: Họ cảm thấy làm chuyện bất thiện sẽ là chuyện mất mặt, chẳng muốn làm; nhưng người được giáo dục nhân quả không dám làm ác, sức mạnh ấy mới to lớn. Người được hưởng giáo dục luân lư đạo đức rất tốt đẹp, nhưng gặp phải t́nh cảnh “danh cao, lợi dầy” như cổ nhân đă nói, vẫn có thể bị động tâm, vẫn là biết rơ mà cố phạm, v́ thấy lợi ích to tát trước mắt mà làm. Nếu hiểu nhân quả, người ấy sẽ chẳng dám làm. V́ thế, trong An Sĩ Toàn Thư có hai câu nói rất hay: “Ai nấy tin nhân quả là đạo đại trị trong thiên hạ. Ai nấy chẳng tin nhân quả là đạo khiến cho thiên hạ đại loạn”. Ấn Quang đại sư lăo nhân gia giới thiệu An Sĩ Toàn Thư, nói bộ sách ấy là “kỳ thư bậc nhất trong thiên hạ”, toàn bộ đều giảng về nhân quả. Cả bộ sách ấy chia làm bốn phần, phần thứ nhất là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, khuyên con người tích âm đức, đoạn ác tu thiện, đó là tích âm đức. Phần này có phân lượng rất lớn, gần như chiếm nửa bộ sách. Nửa c̣n lại của bộ sách gồm có ba thiên, Vạn Thiện Tiên Tư khuyên kiêng giết, Dục Hải Hồi Cuồng khuyên kiêng dâm. Trong các tội nghiệp, hai điều này nặng nhất. Thiên cuối cùng là Tây Quy Trực Chỉ, khuyên quư vị niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ấn Quang đại sư suốt đời v́ chúng ta thị hiện, tôi có cảm giác thật sâu đậm là Ngài đến thị hiện giáo dục nhân quả cho chúng ta, nhằm mục đích ǵ? Cứu vớt xă hội hiện tiền!

      Trong xă hội hiện tiền, nếu mỗi người trên thế giới đều tin nhân quả, thế giới này c̣n được cứu. Nếu ai nấy chẳng tin nhân quả, thế giới này hết cách cứu! Tin nhân quả, luân lư đạo đức liền có tác dụng, sẽ biến thành đất nước lễ nghĩa, xă hội ḥa hài sẽ xuất hiện. Dẫu chưa thể đạt đến thời thịnh trị đại đồng, th́ cũng có thể thấy là thời tiểu khang. Không tin nhân quả, chẳng thể được! Nhân quả là thật, chẳng giả, ở ngay trước mắt, ở ngay chung quanh. Quư vị chú tâm quan sát đôi chút, kẻ làm ác sẽ bị báo ứng hiện tiền rất nhanh, quư vị c̣n có thể chẳng tin ư? Ở Đài Loan, tôi biết cảnh sát h́nh sự cũng như y tá và bác sĩ trong bệnh viện đều tin tưởng, v́ sao? Họ đă trông thấy. Trước kia, tôi có một bạn học là tổ trưởng của bác sĩ nội trú trong bệnh viện Vinh Dân tại Đài Loan. Ông ta nói họ hết sức tin tưởng quỷ thần, v́ sao? Đă trông thấy! Trong Phật pháp có nói vô thường đại quỷ, bạch vô thường, hắc vô thường. Nếu ở cửa pḥng bệnh nhân, chỉ cần thấy có quỷ vô thường, liền biết người bệnh ấy tối đa ba ngày là chết. V́ bác sĩ lẫn y tá đều trông thấy, nên họ tin tưởng. Cảnh sát h́nh sự tin tưởng. Có mấy vị sĩ quan cảnh sát cao cấp đều học Phật, vô cùng kiền thành. Họ kể với tôi: Những vụ án h́nh sự tại Đài Loan, tức là các án sát nhân, tám mươi lăm phần trăm trở lên, phá án bằng cách nào? Đều do những oan hồn bị sát hại giúp cảnh sát h́nh sự t́m thấy thi thể mà phá được án. Nếu chẳng có những người thuộc linh giới đến giúp đỡ, rất nhiều vụ án chẳng có cách nào phá được! Những linh quỷ ấy, có lúc báo mộng, đôi khi nhập vào người khác, hướng dẫn cảnh sát h́nh sự phá án. V́ thế, cảnh sát h́nh sự ở Đài Loan hễ phá án không được, liền thắp hương, vái lạy, lạy linh quỷ: “Ngươi hăy lập tức giúp ta, chúng ta đang gặp khó khăn”, họ sẽ thật sự giúp đỡ quư vị. V́ thế, quư vị hỏi họ, chẳng có ai không tin. Đúng là oan gia có đầu, nợ nần có chủ. Do vậy, “trầm mê phiêu lưu” có ư nghĩa rất sâu, đó là lục đạo chúng sanh.

      “Sanh manh vô mục, vô hy xuất tâm” (sanh manh không có mắt, không có ḷng mong được thoát), câu này là tỷ dụ. “Sanh manh” (生盲) là sanh ra, mắt liền mù, chẳng nh́n thấy. Đây là tỷ dụ chúng sanh chẳng có trí huệ, chẳng có tâm hoặc ư niệm mong mỏi thoát khỏi lục đạo luân hồi, chẳng có ư niệm ấy. “Bồ Tát mẫn chi, vô b́ yếm niệm, thường vi bất thỉnh chi hữu, tùy trục ái hộ” (Bồ Tát thương xót họ, không có ư nghĩ mỏi nhàm, thường làm bạn chẳng thỉnh, thường yêu thương, che chở). Quả thật rất khó có, ḷng từ bi của Bồ Tát vượt xa cha mẹ. Cha mẹ yêu thương, che chở con chỉ một đời, Phật, Bồ Tát yêu thương, che chở chúng sanh đời đời kiếp kiếp, vĩnh viễn theo sát quư vị, đợi quư vị quay đầu, đợi cho quư vị giác ngộ, tâm chẳng mỏi nhàm, chẳng mệt, chẳng chán! Các Ngài thường theo quư vị, thường làm“bạn chẳng thỉnh”. Quư vị chẳng cần t́m đến các Ngài, chẳng mời mọc, các Ngài vẫn t́m đến quư vị. V́ sao? V́ Bồ Tát biết chúng sanh và các Ngài là một Thể, có thể nào chẳng chiếu cố ư? Dẫu cho chúng sanh thật sự trầm mê chẳng ngộ, chẳng tin tưởng, không quan tâm, thậm chí phá hoại Phật, Bồ Tát, các Ngài vẫn chiếu cố quư vị. Quư vị tạo tác các nghiệp nặng nề ấy, [các Ngài] vẫn chẳng từ bỏ quư vị, từ bi đến cùng cực. Chẳng phải là quư vị không tin tưởng, lăng nhục, hủy hoại chư Phật, Bồ Tát th́ chư Phật, Bồ Tát sẽ chẳng gia hộ quư vị. Chẳng phải vậy! Chẳng có lẽ ấy! Nếu chư Phật, Bồ Tát tức giận, chẳng gia hộ quư vị, đó là ma quỷ, chẳng phải là Phật, Bồ Tát. Nhưng quư vị tạo tác tội nghiệp, chắc chắn có báo ứng, quư vị phải tự gánh chịu chuyện ấy. Chẳng phải là do tạo tác những tội nghiệp ấy, Phật, Bồ Tát chẳng quở trách quư vị, v́ sao? Tội có tánh tội, chính cái tâm của quư vị chẳng thiện lương, quư vị đáng phải nhận lănh sự trừng phạt, sự trừng phạt ấy là tam đồ. Quư vị đọa lạc trong tam đồ, chẳng phải là Phật, Bồ Tát đẩy quư vị vào đó. Phật, Bồ Tát cũng chẳng muốn thấy quư vị đọa tam đồ, nhất định phải biết điều này. Do quư vị tạo tác tội nghiệp ấy, chẳng thể không đi vào đó. Nhân duyên quả báo chẳng sai sót mảy may, chẳng liên quan ǵ đến Phật, Bồ Tát, mà cũng chẳng dính dáng ǵ đến Thượng Đế, cũng chẳng có liên quan ǵ đến vua Diêm La, hoàn toàn là tự làm, tự chịu. Nếu c̣n oán trời, hờn người, tội sẽ nặng thêm một cấp, đă có tội lại c̣n đèo thêm tội, rất đáng thương!

      “Cố Niết Bàn kệ viết: Thế cứu yếu cầu nhiên hậu đắc, Như Lai bất thỉnh nhi vi quy” (V́ vậy kinh Niết Bàn có bài kệ rằng: “Thế gian muốn được cứu th́ phải cầu xin rồi sau đấy mới được cứu. Như Lai chẳng được thỉnh mà thường làm chỗ về nương”). Giải thích ư nghĩa câu kệ trong kinh Niết Bàn cũng nhằm nói lên ư nghĩa này. “Thế gian phải cầu rồi sau đó mới được [cứu giúp]”, chúng sanh có cảm, Phật mới có ứng, cảm ứng đạo giao chẳng thể nghĩ bàn. Chúng sanh chẳng yêu cầu Phật, Bồ Tát; Phật, Bồ Tát vẫn đến, đó gọi là “Như Lai chẳng thỉnh vẫn đến”. “Quy” () là trở về. Trong quá khứ, Phật, Bồ Tát cũng là phàm phu, đă từng sống trong lục đạo, nay các Ngài đă thành Phật, thành Bồ Tát, hiểu rất rơ chúng sanh trong lục đạo. Quá khứ đă trụ rất lâu trong đó, biết chúng sanh phiền năo tập khí rất nặng, chỉ cần duyên chín muồi, các Ngài bèn đến. Duyên chín muồi là ǵ? Quư vị có thể tin tưởng, các Ngài sẽ đến. Quư vị có thể lư giải, các Ngài cũng tới. Nếu quư vị không tin tưởng, chẳng thể lư giải, các Ngài cũng không đến, nhưng âm thầm giúp đỡ, quư vị thấy đó: Các Ngài vẫn chẳng bỏ quư vị! Nếu quư vị tin tưởng, có thể tiếp nhận, các Ngài liền đến giúp quư vị rơ rệt, hiện thân thuyết pháp. Nếu quư vị hỏi: V́ sao từ bi dường ấy? Một Thể mà! Hăy ghi nhớ: Hết thảy chúng sanh trong trọn khắp pháp giới hư không giới và ta có cùng một Thể, cùng một Thể với Phật, chúng ta không biết, nhưng các Ngài biết. V́ thế, ḷng từ bi của các Ngài được gọi là “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”, “vô duyên” là chẳng có điều kiện. Đối với con cái, cha mẹ [yêu thương] vô điều kiện, vô tư dâng hiến. Phật, Bồ Tát đối với chúng sanh cũng giống như thế, nên gọi là “đồng thể đại bi”. Trong kinh Phật thường có câu này, đức Phật đă nói từ ba ngàn năm trước.

      “Hựu bất thỉnh chi hữu, kiến Duy Ma Kinh viết: Chúng nhân bất thỉnh, hữu nhi an chi” (Kinh Duy Ma lại giảng chữ “bất thỉnh chi hữu như thế này: “Mọi người chẳng thỉnh mà vẫn làm bạn để giúp cho an ổn”). Người Hoa nói bằng hữu là một trong Ngũ Luân, “bằng” “hữu” khác nhau. “Bằng” (朋) là bạn học, bạn học th́ gọi là Bằng; “Hữu” () thân mật hơn Bằng, có cùng chí hướng mới gọi là Hữu. V́ thế, Hữu là đồng chí, Bằng là bạn học; bạn học chưa chắc đă có cùng chí hướng, nên đồng chí thân thiết hơn. Mọi người không thỉnh, quư vị thấy đó, [chư Phật, Bồ Tát vẫn] đến làm bạn để giúp cho họ được an ổn! “Triệu Công viết” (ngài Tăng Triệu nói), vị này là Tăng Triệu (僧肇) đại sư, “chân hữu bất đăi thỉnh, thí từ mẫu chi thú anh nhi” (bạn chân thật chẳng đợi thỉnh, ví như mẹ hiền luôn hướng về con thơ). Tỷ dụ này rất hay, chư vị phải biết: Bạn chân thật là Phật, Bồ Tát. Nói cách khác, người thế gian là bạn chân thật rất ít, bạn bè giả dối rất nhiều, đến khi chúng ta thật sự gặp khó khăn, họ lánh thật xa, chẳng dám gặp quư vị. Chỉ có Phật, Bồ Tát là chân hữu, khi chúng ta gặp khó khăn, các Ngài quyết định đến giúp đỡ, giống như mẹ hiền đối với con thơ, thời thời khắc khắc canh cánh bên ḷng. “Tịnh Ảnh viết: Sở hóa chúng sanh vô cơ cảm thánh, danh vi bất thỉnh” (Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Chúng sanh được hóa độ chẳng có căn cơ cảm chư thánh, nên gọi là bất thỉnh”). Nêu lên ư nghĩa này hay quá! Giáo hóa chúng sanh, nhưng trong chúng sanh chẳng có hạng người dấy động ư niệm để cảm Phật, Bồ Tát, chẳng có hạng người ấy, nên nói là “bất thỉnh”. “Bồ Tát cưỡng hóa vi tác nhân duyên, danh hữu an chi” (Bồ Tát cưỡng hóa nhân duyên, xưng là bạn để an ổn chúng sanh), nhưng Bồ Tát vẫn miễn cưỡng đến giáo hóa, vẫn đến giúp họ, điều đó gọi là “hữu nhi an chi” (làm bạn để an ổn chúng sanh). [Lư do] thứ hai, “sở hóa chúng sanh tuy hữu đạo cơ, vô kỳ nhạo dục, bất tri cầu thánh, danh vi bất thỉnh” (chúng sanh được hóa độ tuy có đạo cơ, nhưng chẳng có sự ưa thích, mong muốn ấy, chẳng biết cầu thánh, nên gọi là “chẳng thỉnh”). Đó là nói: Dẫu giáo hóa chúng sanh đă có thiện căn trong đời quá khứ, có cơ duyên tu đạo, nhưng nay họ đang mê, mê suốt đời này. Khi mê, họ mê trong ngũ dục, lục trần, chẳng khởi tâm động niệm muốn học đạo, nên họ chẳng biết cầu Phật, Bồ Tát. Hạng người ấy rất nhiều, nên gọi là “chẳng thỉnh”. Nhưng Bồ Tát biết, Bồ Tát biết trong đời quá khứ những kẻ ấy đă từng học Phật, có thiện căn ấy, nên Phật vẫn chẳng bỏ họ. Khi họ có thể tin tưởng, có thể chẳng bài xích, có thể tiếp nhận, Bồ Tát liền chủ động đến giúp đỡ, giáo hóa, thành tựu họ. Đó gọi là “bất thỉnh chi hữu”. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 67 hết

 



[1] Đây là một bài kinh giảng về cái Tâm được coi là do Lữ Thuần Dương (Lữ Động Tân) giáng cơ trong đàn cầu tiên của Đạo gia, không phải là tác phẩm chú giải Tâm Kinh (mạo danh Lữ Tổ) với nội dung xuyên tạc Tâm Kinh để đề cao phép luyện đan của bọn đạo sĩ. Bài Tâm Kinh này khá ngắn, xin trích một đoạn như sau: “Thiên sanh vạn vật, duy nhân tối linh. Phỉ nhân năng linh, thật tâm thị linh. Tâm vi chủ tể, nhất thân chi quân, dịch sử bách hài khu xứ, quần t́nh; vật vô kỳ vật, h́nh vô kỳ h́nh, bẩm thụ ư thiên, lương tri, lương năng, khí câu dục tế, nhật thất kỳ chân. Thử tâm tức thất, thử thân diệc khuynh. Dục thiện kỳ thân, tiên trị kỳ tâm. Trị tâm như hà, tức tâm trị tâm. Dĩ lăo lăo tâm, trị bất hiếu tâm. Dĩ trưởng trưởng tâm, trị bất đễ tâm. Dĩ ủy trí tâm, trị bất trung tâm. Dĩ thành khác tâm, trị bất tín tâm. Dĩ cung kính tâm, trị vô lư tâm…” (trời sanh vạn vật, chỉ có con người là linh thông nhất. Chẳng phải là con người có thể linh thông, mà thật sự là do cái tâm linh thông. Tâm làm chúa tể, là vua của thân, sai khiến cái thân gồm h́nh hài xác thịt và các mối t́nh cảm. Tâm dường như là vật, nhưng chẳng phải là vật, tâm dường như có h́nh dáng, nhưng chẳng có h́nh dáng, được bẩm thụ từ trời, nên có lương tri và lương năng. Do bị dục vọng huân tập, che lấp, nên dần dần đánh mất tánh thiên chân. Cái tâm này đă mất, cái thân cũng lệch lạc theo. Muốn cho cái thân tốt lành, trước hết phải trị cái tâm. Trị tâm như thế nào? Hăy dùng tâm để trị tâm. Dùng cái tâm tôn kính người già của kẻ khác như người già của chính ḿnh để trị cái tâm bất hiếu. Dùng cái tâm coi người bề trên của kẻ khác như bề trên của chính ḿnh để trị cái tâm chẳng cung kính tôn trưởng. Dùng cái tâm tận tụy để trị cái tâm bất trung. Dùng cái tâm thành khẩn để trị cái tâm bất tín. Dùng cái tâm cung kính để trị cái tâm vô lư…)

[2] Công Quá Cách do đạo sĩ Tịnh Minh Đạo biên soạn vào đời Tống, với nội dung phân loại những điều ác và điều thiện để tự xét nhằm chấm điểm hành vi của chính ḿnh hằng ngày. Nội dung các hạng mục dựa theo quan điểm tích thiện của Đạo giáo, luân lư Nho gia, cũng như thuyết nhân quả báo ứng của Phật giáo, nhưng các hạng mục chủ yếu đều lấy những điều đă được nêu trong Âm Chất Văn làm chuẩn.

[3] Hoằng Hóa Xă là một cơ sở lưu thông kinh sách Phật giáo. Thuở đầu, vào năm 1930, do Ấn Quang đại sư đề xướng, Giác Viên Tịnh Nghiệp Xă được thành lập tại Thượng Hải, pháp sư Minh Đạo thuộc chùa Thái B́nh chịu trách nhiệm điều hành. Trước tiên, Tịnh Nghiệp Xă chỉ lưu thông những kinh sách do các nơi đă in. Sau đó, dưới sự giúp sức của các cư sĩ Hoàng Hàm Chi, Vương Nhất Đ́nh, Quan Quưnh Chi v.v…, một tiểu tổ của Tịnh Nghiệp Xă đặc trách ấn hành kinh sách mang tên là Hoằng Hóa Xă được thành lập để tự ấn loát kinh sách. Tổ Ấn Quang chịu trách nhiệm giảo duyệt, tu đính, tŕnh bày, pháp sư Minh Đạo và các vị cư sĩ nói trên chịu trách nhiệm quyên góp, liên lạc với xưởng in, ấn định giá thành, phân phối sách… Về sau, mọi người chỉ biết đến Hoằng Hóa Xă, không c̣n danh xưng Tịnh Nghiệp Xă nữa. Năm 1931, Hoằng Hóa Xă dời về chùa Báo Quốc ở Tô Châu là nơi Ấn Quang đại sư bế quan. Năm 1935, pháp sư Minh Đạo qua đời, không có người giao phó, tổ Ấn Quang phải đích thân trông nom Hoằng Hóa Xă măi cho đến khi Tổ viên tịch. Sau khi Tổ văng sanh vào năm 1940, Hoằng Hóa Xă lại chuyển từ Tô Châu về chùa Giác Viên ở Thượng Hải (trong giai đoạn này, Hoằng Hóa Xă do pháp sư Đức Sâm đảm nhiệm. Sau khi Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa thành lập, pháp sư Diệu Chân tiếp tục chủ tŕ, nhưng chỉ được phép hoạt động cầm chừng). Trong giai đoạn đầu sau khi tổ Ấn Quang mất, Hoằng Hóa Xă dốc sức tái bản các bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Chánh Biên, Tục Biên, Gia Ngôn Lục, Tinh Hoa, và xuất bản tờ Hoằng Hóa Nguyệt San (tờ báo này thoạt đầu do ông Chung Cát Ninh chủ biên, về sau do Du Hữu Duy chủ tŕ và Vương Vĩnh Nguyên làm tổng biên tập) cho đến khi Mao Trạch Đông chiếm lănh toàn bộ Hoa Lục, các hoạt động ấn loát và lưu thông kinh sách Phật giáo của các chùa bị cấm ngặt, nội dung báo chí Phật giáo hoàn toàn bị cán bộ văn hóa chỉ đạo. Năm 1956, Hoằng Hóa Xă được lệnh kết hợp với Thượng Hải Phật Học Thư Cục và Đại Pháp Luân Thư Cục, đổi tên thành Thượng Hải Phật Giáo Thư Điếm (tiệm sách Phật giáo Thượng Hải, do nhà nước quản lư); Hoằng Hóa Xă biến mất. Măi cho đến thập niên 1990, khi chùa Báo Quốc ở Tô Châu được chính quyền Hoa Lục cho mở cửa lại, tăng chúng bèn tái lập Hoằng Hóa Xă trong khuôn viên viện bảo tàng Phật Giáo Tô Châu.

[4] Do người Hán tính năm theo Thiên Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh…) và Địa Chi (Tư, Sửu, Dần, Măo…), nên mỗi năm có tên gọi lần lượt là Giáp Tư, Ất Sửu, Bính Dần v.v…hợp thành sáu mươi danh xưng như thế. Cứ sau sáu mươi năm, tên gọi lại trở về danh xưng khởi điểm là Giáp Tư nên chu kỳ sáu mươi năm thường được gọi là “một giáp tư”.

[5] Tướng Phần (c̣n gọi là Thủ Tướng Phần), chính là đối tượng của nhận thức (khách thể), tức là cái sẽ được nhận thức bởi tâm thức, tức là vật chất, sắc tướng.

Kiến Phần (c̣n gọi là Năng Thủ Phần), chủ thể của sự nhận thức. Hiểu thô thiển th́ khi mắt ta nh́n bông hoa, bông hoa là Tướng Phần, mắt tiếp nhận h́nh ảnh bông hoa th́ sự tiếp nhận đó là Kiến Phần.

Tự Chứng Phần c̣n gọi là Tự Thể Phần, là tác dụng nhận biết của tâm thức khi Kiến Phần duyên với Tướng Phần. Như trong thí dụ trên, khi mắt nh́n thấy bông hoa, tiếp nhận h́nh ảnh bông hoa, Duy Thức gọi chuyện đó là “Kiến Phần duyên Tướng Phần”, tâm thức khởi tác dụng nhận biết hoa có màu ǵ, thơm hay không, tên hoa là ǵ, hoa có mấy cánh, hoa c̣n tươi hay đă héo, ưa thích hay chán ghét bông hoa ấy v.v… Những tác dụng tâm lư ấy thuộc về Tự Chứng Phần.

[6] “Tám chữ Bất” là nói đến một chủ đề chánh yếu trong Trung Quán Luận của Long Thọ Bồ Tát qua bài kệ mở đầu Trung Quán Luận: “Bất sanh, diệc bất diệt, bất thường diệc bất đoạn, bất nhất diệc bất dị, bất lai diệc bất xuất”.